I. Thế giới thay đổi
Chúng ta đang chứng kiến một thế giới thay đổi cả về chất và lượng, trong đó châu Á và Thái Bình Dương đang nổi lên là một khu vực kinh tế phát triển và năng động nhất nhờ các chương trình hội nhập kinh tế cùng sự phát triển của khoa học và công nghệ. Các nền kinh tế lớn nhất trên thế giới cùng đưa ra các chính sách lấy ASEAN là trung tâm như Chương trình “con đường tơ lụa” của Trung Quốc, Chiến lược hợp tác đối tác Thái Bình Dương - Ấn Độ Dương của Hoa Kỳ…Trong các chương trình đó, ASEAN và Việt Nam được các đối tác coi là đóng vai trò hết sức quan trọng vì ở trung tâm của các thị trường đông người tiêu dùng nhất là ASEAN, Ấn Độ và Trung Quốc. Điều đó được thể hiện trong các chương trình hội nhập lớn nhất trên thế giới và khu vực tự do Thái Bình Dương - Ấn Độ Dương là CP TPP và RCEP (xem hình 1).
Hình 1: Chương trình Hội nhập kinh tế RCEP và CPTPP
Vai trò này sẽ được nhân lên gấp bội trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ. Cuộc cách mạng công nghệ hiện nay hoàn toàn khác biệt về tầm vóc, quy mô và độ phức tạp so với bất kỳ cuộc cách mạng kỹ thuật trước đây.Với đặc trưng là một loạt công nghệ mới hòa trộn thế giới vô cơ và hữu cơ, thế giới số và thế giới sinh học, những bước phát triển của cuộc cách mạng này đang ảnh hưởng đến mọi quy tắc, mọi nền kinh tế, mọi ngành nghề và tổ chức, thậm chí thách thức cả nội hàm của khái niệm “con người”. Các tổ chức, doanh nghiệp cũng phải thích ứng với thực tế là thiết chế hành chính và cơ cấu tổ chức truyền thống tập trung, thứ bậc từ trên xuống sẽ chuyển dịch sang các mô hình tổ chức mới, từ các thể chế cứng sang thể chế mạng hoặc phẳng. Các công nghệ mới, các nhóm công tác và những tương tác họ tạo ra cho phép hầu như bất kỳ ai cũng có thể tạo ra giá trị gia tăng cho tổ chức. Tốc độ thay đổi nhanh chóng của cuộc cách mạng này đang đặt ra thách thức ở mọi cấp độ chưa từng có với các nhà quản lý. Mô hình tổ chức cứng nhắc, kế hoạch hóa thường chạy theo sự kiện, không thể ứng phó với tốc độ thay đổi công nghệ và tầm vóc ảnh hưởng của nó. Công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ gây áp lực cho giới lãnh đạo phải đưa ra các quyết định kinh doanh rất nhanh để có thể giảm thiểu rủi ro và nắm bắt cơ hội. Để đưa ra các quyết định với tốc độ nhanh như vậy, cần phải có các phần mềm hỗ trợ cho bộ óc của con người theo cách mà chúng ta không có tiền lệ trước đây. Điều đó sẽ ảnh hưởng to lớn đến các tổ chức, doanh nghiệp cũng như công việc thương mại, đầu tư và phát triển thế hệ trẻ…
Trong bối cảnh như vậy, nâng cao khả năng cạnh tranh doanh nghiệp sẽ theo hướng cạnh tranh dựa vào lợi thế so sánh về nguồn lực tự nhiên và công nghệ cũng như phương pháp quản lý mới để tạo thêm giá trị gia tăng sản phẩm. Đặc biệt tập trung vào phân khúc có giá trị gia tăng cao trong chuỗi giá trị sản phẩm (xem hình 2) như: Nghiên cứu và phát triển sản phẩm (A), thiết kế sản phẩm (B), marketing (E - thương hiệu, giá cả, bán hàng và dịch vụ sau bán hàng (F). Các phân khúc như sản xuất (C) và chế biến (D) có giá trị gia tăng thấp hơn.

Có thể thấy thương hiệu chi phối mạnh mẽ tất cả các phân khúc giá trị của sản phẩm. Tuy nhiên, sự chi phối đó mạnh hơn ở các phân khúc A, B, E, F. Chính vì vậy, với bối cảnh chuỗi giá trị sản phẩm đã kéo dài và mở rộng khắp toàn cầu trong quá trình hội nhập thì các công ty đa quốc gia có xu hướng thuê lại (outsourcing) các phân khúc C và D cho các nước đang phát triển. Và đây cũng là cơ hội cho các nước đang phát triển có thể thu hút đầu tư, phát triển đối tác nhằm nâng cao trình độ sản xuất kinh doanh trong chiến lược ngắn hạn và trung hạn. Điều này cũng giải thích tại sao thế giới ngày nay vừa cạnh tranh vừa hợp tác. Mặc dù vậy, trong chiến lược dài hạn, các nước đang phát triển và các doanh nghiệp cũng cần thiết phát triển và mở rộng tham gia vào các phân khúc A, B, E, F nhằm nâng cao hiệu quả. Hơn nữa, cần phải đột phá trong phân khúc E – marketing (giá cả, bán hàng…) thông qua việc phát triển thương hiệu sản phẩm, dịch vụ của mình.
Tất cả sự thay đổi đó dẫn tới một nền kinh tế phải phát triển thông minh. Các mô hình thành phố thông minh, doanh nghiệp thông minh và nền kinh tế thông minh ngày càng trở thành các chiến lược của các quốc gia nhằm tận dụng sự thay đổi tích cực của thế giới để tạo ra sự phát triển của mình đảm bảo 2 mục đích chiến lược: (1)Sản phẩm cạnh tranh cao và (2)Đời sống người lao động phải không ngừng nâng cao.
II. Doanh nghiệp Thông minh
Doanh nghiệp thông minh là doanh nghiệp có hiệu quả và mang tính bền vững. Doanh nghiệp công nghệ cao là doanh nghiệp có ứng dụng công nghệ cao. Trong thời đại công nghệ ngày nay, một doanh nghiệp thông minh chắc chắn sẽ phải sử dụng công nghệ cao tác động vào các phân khúc của chuỗi giá trị sản phẩm (hình 2) để tạo ra nhiều giá trị gia tăng. Điều đó cũng lý giải tại sao 1 ly cà phê bán ở thị trường Âu, Mỹ có giá 2 USD, trong đó giá trị nguyên liệu cà phê chỉ khoảng 1- 2 cent. Một ví dụ về việc sử dụng công nghệ cao tiêu chuẩn và định vị toàn cầu để quản lý thời gian, chất lượng sản phẩm trong quá trình từ nơi sản xuất đến người sử dụng cuối cùng (xem hình 3) được đề xuất trong Hội nghị Thượng đỉnh kinh doanh khu vực châu Á –Thái Bình Dương 2017.
Công nghệ ngày nay cũng đang marketing cho sản phẩm, dịch vụ mạnh mẽ qua việc sử dụng thương mại điện tử. Nhìn sang quốc gia đang trở thành nền kinh tế lớn thứ 2 trên thế giới, có thể thấy doanh nghiệp của Trung Quốc phát triển nhanh là nhờ công nghệ cao và thương mại điện tử được áp dụng rộng rãi trong các lĩnh vực sản xuất và kinh doanh của nước này.
III. Thương mại điện tử
Để trở thành 1 doanh nghiệp thông minh trong thời đại “vạn vật kết nối”, có rất nhiều công việc cần phải đầu tư và phát triển. Sự phát triển mạng internet và các công nghệ IoT sẽ giúp cho doanh nghiệp tạo ra giá trị gia tăng cho sản phẩm doanh nghiệp ở phân khúc E (hình 2) thông qua thương mại điện tử.
Có 2 loại thương mại điện tử cơ bản: B2C và B2B
3.1 B2C (Doanh nghiệp – Người tiêu dùng)
Doanh nghiệp sử dụng mạng bán hàng qua nhiều hình thức xúc tiến bán hàng bằng cách tạo ra, quảng bá website, thiết kế đơn đặt hàng, đưa bản chào hàng, trao đổi thông tin qua mạng, kết nối với hệ thống điện tử của khách hàng... Tuy nhiên, trong đa số trường hợp đối với doanh nghiệp, duy trì và vận hành bán sản phẩm qua mạng quá tốn kém thời gian và tiền bạc. Trong trường hợp này có thể sử dụng các shop, cửa hàng điện tử trung gian và trả tiền hoa hồng.
Quá trình sử dụng shop điện tử gồm các bước: ký kết và thiết kế pháp danh nông trường, thông tin trữ lượng hàng với thời gian có hàng, cửa hàng điện tử xúc tiến quảng bá để có truy cập nhiều, người tiêu dùng đặt hàng, đưa thông tin thẻ tín dụng, trong trường hợp đơn đặt hàng được doanh nghiệp chấp nhận, cửa hàng thu tiền qua thẻ tín dụng và thông báo cho người tiêu dùng. Người tiêu dùng nhận hàng. Khi người tiêu dùng nhận được hàng thì cửa hàng trả tiền cho doanh nghiệp.
3.2 B2B (Doanh nghiệp – Doanh nghiệp)
B2B là hình thức kinh doanh được thực hiện giữa các doanh nghiệp và các tổ chức khác nhau. B2B có thể giao dịch không cần có sự môi giới truyền thống. Tuy nhiên, B2B thường sử dụng loại môi giới điện tử được tạo nên bởi bên thứ 3 gọi là sàn giao dịch điện tử để đáp ứng nhanh sự thay đổi của giá sản phẩm doanh nghiệp. Giá trong quá trình bán hàng có thể thay đổi theo từng giây. Trong quá trình biến động giá, doanh nghiệp đặt giá mua hàng. Hệ thống đấu thầu khởi động, vận hành. Người mua và người bán có thể quan sát quá trình đấu thầu. Cuộc mua bán được hoàn tất khi giá mua và giá bán khớp nhau. Giá được xác định qua sàn giao dịch bằng 2 cách: đấu thầu và bảng chào giá. Bên mua và bên bán đăng ký qua website để tham gia vào sàn giao dịch.
Bán hàng qua mạng có thể tiết kiệm được thời gian, giảm giá thành. Đặc biệt, bán hàng qua mạng, người tiêu dùng được kết nối thông tin về quá trình sản xuất và theo dõi được doanh nghiệp tuân thủ các tiêu chuẩn kỹ thuật và lao động. Mặt khác, doanh nghiệp cũng kết nối, giao tiếp trực tiếp với khách hàng và qua đó nắm bắt được thị trường một cách nhanh nhất. Điều này rất có ý nghĩa vì theo khảo sát mới đây, chỉ riêng trong lĩnh vực xuất khẩu, mới có khoảng 30% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam được hưởng các ưu đãi thuế quan. Ở các khía cạnh khác, mức độ tận dụng cũng rất thấp. Một trong những nguyên nhân được chỉ ra là do doanh nghiệp thiếu các thông tin về nhu cầu ở các thị trường, về diễn tiến cung – cầu và dòng chảy thương mại, đầu tư ở các thị trường... Thiếu các thông tin cơ bản này, quá trình hoạch định kế hoạch kinh doanh, nhận diện thị trường, sản phẩm mục tiêu và dự kiến lợi nhuận của doanh nghiệp nói riêng và các ngành kinh tế nói chung bị hạn chế đáng kể.

Hình 3 : Tiêu chuẩn hóa và định vị toàn cầu để tăng hiệu quả sản phẩm
IV. Kết luận
Trong một thế giới và khu vực thay đổi, bên cạnh những thách thức, có rất nhiều cơ hội to lớn cho doanh nghiệp Việt Nam. Với việc xây dựng chiến lược phát triển doanh nghiệp thông minh cùng với áp dụng công nghệ cao hợp lý, công nghệ bán hàng qua mạng và thương mại điện tử sẽ tạo giá trị gia tăng cho chuỗi giá trị của sản phẩm, góp phần phát triển một cộng đồng doanh nghiệp thông minh của quốc gia, thực hiện tốt chiến lược của Chính phủ trong thời đại hội nhập kinh tế và khoa học công nghệ cách mạng 4.0.
Ts Đoàn Duy Khương - Phó Chủ tịch VCCI