06:59:44 | 19/3/2012
Từng bước tháo gỡ những khó khăn tồn tại, đẩy mạnh chuyển đổi mô hình sản xuất, tăng cường chất lượng, tổ chức lại sản xuất nuôi trồng v.v. ngành thủy sản hướng đến phát triển bền vững, mục tiêu đạt 6,5 tỷ đô la xuất khẩu năm 2012.
PV tạp chí Vietnam Business Forum đã có cuộc phỏng vấn Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Vũ Văn Tám trước thềm ILDEX. T.Yên – T.Huyền thực hiện.
Nhìn một cách tổng thế, trong những năm qua, ngành nuôi trồng, khai thác và xuất khẩu thuỷ sản đã phát triển như thế nào, thưa Thứ trưởng?
Những năm vừa qua thủy sản Việt Nam phát triển theo hướng từ sản xuất manh mún sang hướng sản xuất hàng hoá và từ khai thác tự nhiên trên biển là chính sang hướng nuôi trồng. Bắt đầu từ năm 2007 thì sản lượng lĩnh vực nuôi trồng vượt lĩnh vực khai thác trên 2 triệu tấn. Trong giai đoạn này khai thác thủy sản phát triển tương đối chậm, khoảng gần 3% năm vì ngùôn lợi hải sản của Việt Nam đã khai thác đến mức tới hạn. Thêm vào đó là yếu tố giá dầu tăng, thiên tai liên tục xảy ra, rồi các phương pháp khai thác như tàu còn lạc hậu, lưới cụ ít được đầu tư cải tiến so với lĩnh vực nuôi trồng v.v.
Tuy nhiên, có thể nói, từ năm 2001 đến nay, ngành thuỷ sản có tốc độc phát triển tương đối tốt, vượt qua được những khó khăn về thiên tai, dịch bệnh, rào cản thương mại cũng như những khó khăn của nền kinh tế. Giá trị sản xuất đạt mức tăng trưởng bình quân 9,4%/năm; xuất khẩu tăng trưởng là 12,23%. Theo xếp hạng của FAO năm 2009 thì thuỷ sản Việt Nam đứng hàng thứ 3 thế giới về nuôi trồng thủy sản và đứng thứ 4 về xuất khẩu thủy sản; đứng thứ 11 về khai thác và hiện nay thủy sản Việt Nam đã có mặt tại 160 thị trường thế giới và là một trong những lĩnh vực sớm tiếp cận, cạnh tranh với thị trường thế giới so với các hàng nông sản khác.
Mặc dù đạt thứ hạng xuất khẩu cao, vẫn tồn tại nhiều rào cản thương mại và kỹ thuật hạn chế thủy sản Việt Nam vươn ra các thị trường khác, thưa Thứ trưởng?
Đúng là vẫn còn những tồn tại tác động lớn đến thị trường xuất khẩu thủy sản của Việt Nam. Một số quốc gia vẫn chưa công nhận nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường. Đây là lý do các nước này đưa ra để quy kết Việt Nam bán phá giá và áp đặt thuế chống bán phá giá. Một số thị trường khác thì tạo ra những rào cản kỹ thuật như quy định về an toàn vệ sinh thực phẩm, chất lượng sản phẩm để từ đó đưa ra những quy trình kiểm soát bắt buộc theo chuỗi sản phẩm từ đầu vào, quy trình sản xuất, đến chế biến xuất khẩu rồi từ đó đặt ra những quy định rất nghiêm ngặt hạn chế xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang các thị trường khác. Bên cạnh đó, một số đối thủ cạnh tranh khác cũng dùng các biện pháp không lành mạnh, bôi nhọ, tuyên truyền sai lệch về các sản phẩm thủy sản của Việt Nam làm cho người tiêu dùng cảnh giác, hạn chế sử dụng sản phẩm thủy sản Việt Nam.
Thủy sản Việt Nam liên tục phải đấu tranh rất quyết liệt với các rào cản thương mại của các nước để duy trì sự phát triển của ngành. Ngành thủy sản liên tục phải nghiên cứu và tiếp cận từng thị trường, sản phẩm cụ thể. Bên cạnh đó ngành cũng phải phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan quản lý nhà nước với hiệp hội chế biến xuất khẩu thủy sản, các cơ quan thương mại cũng như các đại diện thương mại của Việt Nam tại các nước và các tổ chức song phương và đa phương để giải quyết từng vụ việc cụ thể. Đồng thời, chủ động tuyên truyền, quảng bá, công khai minh bạch những hoạt động tốt của Việt Nam để cho các nhà nhập khẩu và người dân nước nhập khẩu hiểu được sự cố gắng, minh bạch của Việt Nam cũng như thay đổi cách quản lý theo chuỗi sản phẩm, tăng cường quản lý theo chất lượng để đảm bảo sản phẩm cũng như yêu cầu của thị trường.
Về chất lượng sản phẩm, vốn đầu tư… để phát triển thuỷ sản giai đoạn hiện nay thế nào, thưa thứ trưởng?
Việt Nam phát triển tương đối tốt về sản lượng, quy mô nhưng giá trị gia tăng cũng như hiệu quả lợi nhuận mà người sản xuất cũng như DN thu được chưa tương xứng, nếu không giải quyết tốt sẽ dẫn đến phát triển không bền vững. Hiện nay, nhu cầu về vốn là rất lớn, tuy nhiên điều kiện khó khăn của kinh tế Việt Nam cũng như kinh tế thế giới những năm gần đây khiến cho việc tiếp cận vốn của người sản xuất và DN rất khó khăn, đặc biệt năm 2011 và 2012 này. Thêm vào đó là những vấn đề về môi trường và dịch bệnh do có những hạn chế về đầu tư hạ tầng chưa phát triển đồng bộ nên môi trường nước, phát triển bền vững không đảm bảo nên cũng hết sức khó khăn.
Từ rất nhiều những khó khăn như vậy, con số mục tiêu của ngành năm nay là bao nhiêu và khả năng thực hiện như thế nào, thưa thứ trưởng?
Đối với phát triển thủy sản thì năm 2012 dự kiến sản lượng thủy sản là 5,4 triệu tấn, trong đó khai thác cố gắng giữ ở mức 2,4 triệu; nuôi trồng trên 3 triệu; xuất khẩu dự kiến đạt 6,5 tỷ đô la. Đây là con số đưa ra để phấn đấu nhưng năm nay là năm được xác định là một năm khó khăn, thậm chí khó khăn hơn 2011 nhưng với kinh nghiệm, sự cố gắng khắc phục khó khăn và hi vọng tình hình kinh tế đất nước và thế giới khá lên thì ngành thủy sản sẽ đạt được mục tiêu đề ra.
Nhìn xa hơn, định hướng phát triển cụ thể cho ngành nuôi, trồng, và đánh bắt thuỷ sản đến năm 2020 như thế nào, thưa Thứ trưởng?
Năm 2010 Thủ tướng chính phủ đã phê duyệt chiến lược phát triển thủy sản đến năm 2020 tại quyết định 1690. Theo đó, định hướng đến năm 2020 hướng phát triển của thủy sản Việt Nam là chuyển từ nghề cá quy mô nhỏ sang nghề cá hiện đại theo hướng công nghiệp, phát triển ngành thủy sản theo hướng chất lượng và cạnh tranh, phát triển bền vững. Cụ thể, trong lĩnh vực khai thác thủy sản tổ chức lại khai thác đối với xa bờ cũng như ven bờ và đồng thời hiện đại hóa tàu cá cũng như ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật vào khai thác. Cùng với đó sẽ phát triển cơ sở hạ tầng như cảng cá, khu neo đậu để làm tốt hậu cần nghề cá. Trong lĩnh vực nuôi trồng, Việt Nam sẽ quản lý khai thác theo chuỗi sản phẩm, tập trung vào phát triển một số sản phẩm chủ lực mà có thị trường tốt, khối lượng lớn, có sức cạnh tranh tốt như cá tra, tôm nước lợ, nghêu và một số đối tượng nuôi khác kể cả nuôi biển và nuôi hồ. Ngành sẽ tập trung quản lý tốt vật tư đầu vào như giống, thức ăn, chế phẩm và quản lý theo quy trình và theo chuỗi sản phẩm.
Bên cạnh đó là liên kết giữa người nuôi và chế biến xuất khẩu. Trong chế biến thương mại phải phát triển theo hướng đẩy mạnh chế biến, giá trị gia tăng các hàng giá trị gia tăng. Thêm nữa, tăng cường khả năng cạnh tranh của mặt hàng thủy sản cũng như xúc tiến thương mại và chuyển hướng từ xuất khẩu thô hiện nay là chính sang sản phẩm thủy sản được chế biến có giá trị gia tăng; chuyển hướng từ xuất khẩu trực tiếp và xuất khẩu cho các nhà nhập khẩu hiện nay là chính sang xuất khẩu cho các hệ thống khối bán lẻ để làm bớt trung gian và tăng cường quảng bá thương hiệu. Ngành sẽ xây dựng các thương hiệu sản phẩm chế biến của Việt Nam và bắt tay trực tiếp với các chuỗi phân phối đến người tiêu dùng, giảm bớt khâu trung gian để sản phẩm thủy sản của Việt Nam được xuất khẩu với giá trị cao hơn, lợi ích của người sản xuất tốt hơn.