09:02:38 | 30/10/2012
Vừa qua, Cục Xúc tiến Thương mại (Bộ Công Thương) đã tổ chức Hội thảo “Hiệp định thương mại tự do (FTA): Tận dụng các ưu đãi và cơ hội mở rộng thị trường xuất khẩu”. Sự kiện là cơ hội cho các doanh nghiệp nắm bắt được cơ hội và thách thức cũng như tận dụng các cơ hội từ lộ trình giảm thuế và xóa bỏ hàng rào kỹ thuật phi thuế quan của các nước và khu vực đối tác thương mại để mở rộng thị trường xuất khẩu.
Theo dự báo, đến hết năm 2012, tình hình kinh tế vẫn sẽ phải đối mặt với nhiều khó khăn và thử thách. Tình hình này còn có nguy cơ kéo dài sang năm 2013. Để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, các nước có xu hướng mở rộng quan hệ hoạt động thương mại thông qua ký kết các hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương, thực hiện lộ trình cắt giảm và xóa bỏ hàng rào thuế quan, tiến tới thiết lập các khu vực mậu dịch tự do. Bởi bên cạnh việc tiếp tục tái cơ cấu sản phẩm hàng hóa xuất khẩu để đạt giá trị gia tăng cao, các doanh nghiệp xuất khẩu cần tận dụng triệt để cơ hội ưu đãi của FTA để mở rộng thị trường xuất khẩu. Việt Nam cũng đã và đang đẩy mạnh đàm phán hiệp định thương mại tự do với nhiều đối tác trên thế giới. Việc đàm phán hiệp định thương mại tự do xuyên Thái Bình Dương, Hiệp định thương mại tự do với liên minh châu Âu, với Hàn Quốc... cũng đang được Việt Nam triển khai với mục tiêu tạo ra những bước đột phá mới trong việc mở rộng thị trường xuất khẩu và tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế và thương mại.

Tại hội thảo, ông Lê Xuân Dương, Giám đốc Trung tâm hỗ trợ xuất khẩu (Cục Xúc tiến Thương mại) cho rằng việc ký kết và tham gia các Hiệp định thương mại tự do đã tạo cho Việt Nam những cơ hội thuận lợi để phát triển kinh tế và tăng trưởng xuất khẩu, nhưng cũng đặt ra nhiều thách cho nền kinh tế, như mở cửa cho hàng nhập khẩu và dịch vụ của nước ngoài, hàng Việt Nam bị giảm sức cạnh tranh ngay tại thị trường trong nước… Tuy nhiên, ông cho rằng, thực tế, những thuận lợi và cơ hội mà FTA mang lại là lớn hơn nhiều so với những khó khăn, thách thức.
Ông Trần Bá Cường, Trưởng phòng WTO, Chuyên gia đàm phán, Vụ Chính sách Thương mại Đa biên, Bộ Công thương cho biết, Việt Nam đã ký kết một số FTA song phương và đa phương, hiện Việt Nam cũng đang trong thời kỳ đàm phán FTA với Chi-Lê. Đây là những tín hiệu tốt cho các doanh nghiệp Việt Nam. Nhấn mạnh về những tác động tích cực của các Hiệp định thương mại tự do mang lại, ông dẫn chứng, chỉ tính riêng Hiệp định khu vực thương mại tự do ASEAN đã giúp tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam sang khu vực này tăng nhanh (23,4%/năm). Với Hiệp định khu vực thương mại tự do ASEAN – Nhật Bản, các mặt hàng có khả năng tận dụng lợi ích FTA khi sang thị trường này là hàng dệt may, thủy sản, giầy dép, gỗ và đồ gỗ, chè, hạt tiêu; bánh kẹo và các sản phẩm từ ngũ cốc; hàng rau quả; sản phẩm mây, tre, cói và thảm; sản phẩm gốm, sứ; cà phê.... Ví dụ như loại cà phê đã rang và tách caphein: thuế MFN của Nhật là 12%, cắt giảm thuế quan đến năm 2018. Mức thuế cắt giảm cuối cùng đến 2018 là 10%. Từ 1/4/2012, thuế suất đối với cà phê đã rang và tách caphein là 10,9% cho đến hết 31/3/2013… Với FTA ASEAN- Australia - Niu Di-lân, các doanh nghiệp có thể tận dụng lợi thế xuất khẩu các mặt hàng như: Hoa (cành), cà phê, hạt điều, may mặc… Tuy nhiên đây là những thị trường nhập khẩu khá khắt khe về tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm, kỹ thuật... do đó các DN cần xem xét khả năng thích ứng với các rào cản phi thuế khi xuất khẩu sang các thị trường này.
Về những khó khăn của các doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia vào các Hiệp định thương mại tự do này, ông Cường cho rằng, các doanh nghiệp chưa hiểu biết nhiều về FTA cũng như cập nhật đầy đủ về cam kết cắt giảm thuế quan hàng năm của các đối tác FTA với Việt Nam và các cách tận dụng FTA. Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp chưa nghiên cứu cụ thể về quy tắc xuất xứ, mức cắt giảm thuế quan trước khi lập kế hoạch sản xuất, kinh doanh, xuất khẩu. Điều này dẫn đến việc không tận dụng được hết các ưu đãi mà FTA mang lại.
Ông Lê Quốc Bảo – Giám đốc Văn phòng TBT Việt Nam- Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng – Bộ Khoa học Công nghệ (Cơ quan đầu mối đại diện của Việt Nam tham gia đàm phán quốc tế liên quan đến hàng rào kỹ thuật trong thương mại) cũng đã nêu ra những khó khăn cơ bản của doanh nghiệp khi thực hiện xuất khẩu là các rào cản kỹ thuật (TBT), vệ sinh thực phẩm và dịch tễ (SPS), tự vệ thương mại… mà các nước đưa ra nhằm bảo vệ nền sản xuất trong nước, hạn chế nhập khẩu hoặc các lý do khác như về an toàn vệ sinh, môi trường… Để vượt qua thách thức này, theo ông Bảo, bên cạnh nghiên cứu thị trường, thủ tục thuế, hải quan, các doanh nghiệp Việt Nam phải nghiên cứu kỹ các văn bản quy định của các nước về sản phẩm mà doanh nghiệp định sản xuất, liên tục cập nhật thông tin để đưa ra kế hoạch cụ thể và phù hợp.
Chuyên gia đàm phán, Vụ Chính sách Thương mại Đa biên, Bộ Công thương, Trần Bá Cường nhấn mạnh thêm, các DN cần tích cực nghiên cứu các Hiệp định FTA qua các website, trao đổi, xin tư vấn với các bộ ngành để được hướng dẫn cụ thể; cập nhật đầy đủ các cam kết cắt giảm thuế quan hàng năm của các đối tác trong các FTA với Việt Nam, thông tin về hàng rào kỹ thuật, biện pháp kiểm dịch động vật của các nước đối tác nhập khẩu.
Ông Dương cũng đưa ra lời khuyên, các doanh nghiệp cần nắm bắt được những thuận lợi và triệt để khai thác các cơ hội và lợi thế mở cửa thị trường xuất khẩu, các ưu đãi về cắt giảm thuế quan và rào cản phi thuế quan cũng như hiểu được những thách thức trong khi thực hiện các Hiệp định Thương mại tự do, để từ đó chủ động định ra chiến lược tiếp cận thị trường nước ngoài một cách phù hợp. Bên cạnh đó, các cơ quan quản lý cũng cần đặt ra các mục tiêu hỗ trợ doanh nghiệp để họ tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị của khu vực và toàn cầu.
Thu Hà