Xuất khẩu có khả năng về đích sớm

09:09:53 | 8/7/2013

Mặc dù gặp bất lợi về giá, một số mặt hàng gặp phải hàng rào thương mại, 6 tháng đầu năm kim ngạch xuất khẩu vẫn tăng 13,5% so với cùng kỳ năm ngoái. Để hoàn thành kế hoạch năm 2013 mà Chính phủ giao (126 tỷ USD), trong 6 tháng cuối năm Việt Nam phải xuất khẩu bình quân là 10,67 tỷ USD/tháng. Xét theo yếu tố chu kỳ, xuất khẩu 6 tháng cuối năm luôn cao hơn 6 tháng đầu năm từ 15 - 25%, nếu như không có yếu tố đột biến, ngành xuất khẩu có nhiều dư địa để đạt được mục tiêu đề ra.

Bất lợi về giá

Theo báo cáo của Bộ Công Thương, kim ngạch xuất khẩu 6 tháng đầu năm 2013 ước đạt 62,05 tỷ USD, tăng 16,1% so với cùng kỳ năm 2012. Trong đó, khu vực 100% vốn trong nước ước đạt 20,9 tỷ USD, tăng 2,2% so với cùng kỳ; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 41,14 tỷ USD (kể cả dầu thô), tăng 24,7% so với cùng kỳ.

Tăng trưởng xuất khẩu trong 6 tháng đầu năm có sự đóng góp lớn của các mặt hàng thuộc nhóm công nghiệp chế biến và chủ yếu do sự đóng góp của các mặt hàng thuộc khối các doanh nghiệp FDI sản xuất như: điện thoại các loại và linh kiện, máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện... Nếu tính giá trị tuyệt đối, xuất khẩu 6 tháng năm 2013 tăng so với cùng kỳ là 8,6 tỷ USD thì các mặt hàng này đã đóng góp trên 6,3 tỷ USD.

Xuất khẩu của khối các doanh nghiệp trong nước tăng 2,2% so với cùng kỳ năm 2012, trong khi đó cùng kỳ năm 2012 so với cùng kỳ năm 2011 tăng 1%, dù mức tăng so với cùng kỳ không cao nhưng cũng là dấu hiệu cho thấy sự nỗ lực của các doanh nghiệp trong nước trong việc đẩy mạnh xuất khẩu, nhà nước cần quan tâm tạo điều kiện hơn nữa cho các doanh nghiệp trong nước để khôi phục sản xuất, thúc đẩy xuất khẩu.

Do khó khăn của các nền kinh tế trên thế giới và việc hạn chế tiêu dùng, nên giá hàng hoá, đặc biệt là giá hàng nông sản giảm sút, làm cho mức giá xuất khẩu bình quân của 6 tháng năm nay thấp hơn so với cùng kỳ. So với cùng kỳ năm 2012, trong 8 mặt hàng nông sản tính được về lượng và giá thì có đến 6 mặt hàng lượng xuất khẩu giảm, chỉ có 2 mặt hàng là nhân điều và hạt tiêu có lượng xuất khẩu tăng tương ứng tăng 15% và 23%. Có 4 mặt hàng giá bình quân xuất khẩu giảm là hạt điều, hạt tiêu, gạo và cao su.

Xuất khẩu nhóm hàng nhiên liệu và khoáng sản, ước đạt hơn 5 tỷ USD, giảm 10,5% so với cùng kỳ, chiếm tỷ trọng 8% kim ngạch xuất khẩu. Ở nhóm này, duy chỉ có mặt hàng xăng dầu các loại xuất khẩu giảm, do tái xuất xăng dầu giảm, còn lại các mặt hàng khác lượng xuất khẩu đều tăng, trong đó mặt hàng quặng và khoáng sản khác xuất khẩu tăng cao do Chính phủ đồng ý cho phép các doanh nghiệp khai thác khoáng sản xuất khẩu một số loại quặng nhằm giảm tồn kho, tháo gỡ khó khăn. Tuy nhiên, giá xuất khẩu của nhóm (trừ giá xuất khẩu quặng và khoáng sản khác tăng), còn lại các mặt hàng khác đều giảm nên so với cùng kỳ.

Nhóm hàng nông sản xuất khẩu do giá xuất khẩu giảm đã làm giảm 252 triệu USD kim ngạch xuất khẩu; nhóm hàng nhiên liệu và khoáng sản do giá xuất khẩu giảm đã làm giảm 530 triệu USD kim ngạch xuất khẩu. Tính chung cả 2 nhóm hàng giá xuất khẩu giảm làm giảm 783 triệu USD kim ngạch xuất khẩu.

Bên cạnh đó, một loạt các trở ngại về thị trường cũng như điều kiện thời tiết nên lượng xuất khẩu của một số mặt hàng nông sản giảm, tính riêng mặt hàng nông sản do lượng xuất khẩu giảm đã làm giảm 610 triệu USD kim ngạch xuất khẩu. Tính cả nhóm hàng nhiên liệu và khoáng sản, lượng xuất khẩu giảm đã làm giảm 674 triệu USD kim ngạch xuất khẩu.

Tính chung cả 2 nhóm hàng tính được về giá và lượng là nhóm nông sản và nhiên liệu khoáng sản thì do tăng, giảm giá và lượng đã làm giảm hơn 1,45 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu.Các giải pháp như mua tạm trữ, hỗ trợ doanh nghiệp về vốn, đáo hạn ngân hàng, tìm kiếm thị trường cần tiếp tục được thúc đẩy.

Nhìn chung, xuất khẩu của nhóm các mặt hàng công nghiệp chế biến tiếp tục là điểm nổi bật trong bức tranh xuất khẩu của Việt Nam trong 6 tháng đầu năm với mức tăng trưởng cao nhất (27,2%) và đóng góp lớn nhất (hơn 9,1 tỷ USD) vào gia tăng kim ngạch xuất khẩu chung.

Châu Phi là thị trường dẫn đầu tăng trưởng

So với cùng kỳ năm 2012, ước xuất khẩu sang khu vực thị trường các nước Châu Phi có mức tăng trưởng cao nhất (tăng 41,7%) cao hơn tốc độ tăng trưởng xuất khẩu chung, trong đó có yếu tố xuất khẩu vàng sang Nam Phi tăng. Tiếp đến là thị trường các nước châu Á (tăng 19,9%) thị trường Châu Á tiếp tục là thị trường xuất khẩu quan trọng của Việt Nam với tốc độ tăng trưởng cao và chiếm tỷ trọng lớn nhất (hơn 82% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, tăng 2% so với 6 tháng năm 2012).

Mặc dù có những khó khăn nhất định, nhưng xuất khẩu sang khu vực thị trường các nước Châu Âu vẫn có tốc độ tăng 15,8%, trong đó thị trường các nước EU 27 tăng 20,8%. Xuất khẩu sang thị trường Châu Mỹ tăng trưởng thấp, chỉ tăng 7,2%, trong đó xuất khẩu sang Mỹ tăng 13%, thấp hơn mức xuất khẩu bình quân chung. Trong các khu vực thị trường, duy nhất xuất khẩu sang thị trường các nước Châu Đại Dương giảm 22,9%, trong đó giảm ở thị trường Úc, giảm 28,6%.

Hương Ly