11:45:03 | 15/10/2013
Trong đàm phán Hiệp định Thương mại tự do (FTA) giữa Việt Nam và Khối Thương mại tự do châu Âu (EFTA), đàm phán về hệ thống Kiểm dịch động thực vật (SPS) giữ vai trò rất quan trọng trong việc tạo điều kiện cho hàng nông sản và thủy sản Việt Nam có thể xuất khẩu mạnh hơn sang thị trường các nước thành viên EFTA nói riêng cũng như các nước châu Âu nói chung. Đây là thông tin được Vụ trưởng - Trưởng đoàn đàm phán Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam - EFTA Trần Trung Thực đưa ra tại Hội thảo "Giới thiệu về hệ thống SPS của các nước EFTA" vừa diện ra tại Tp.HCM.
EFTA được thành lập ngày 3/5/1960 như một khối mậu dịch khác cho các nước châu Âu không gia nhập Liên minh châu Âu với 4 hội viên chính thức là: Thụy Sỹ, Na Uy, Ai-xơ-len và Lich-ten-xtanh. EFTA là một liên kết kinh tế không lớn nhưng có tính năng động, đặc biệt trong khối này có một số thị trường có tiềm năng đối với xuất khẩu của Việt Nam là Thụy Sỹ, Na Uy. Từ ngày 22 - 25/5/2012, Việt Nam đã tiến hành đàm phán phiên đầu tiên Hiệp định FTA với khối EFTA và tới nay hai bên đã trải qua 5 phiên đàm phán. Song song với đàm phán FTA, ngày 3/7/2012, Khối EFTA đã cùng Việt Nam ký Biên bản ghi nhớ về việc các nước Khối EFTA công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường. Quyết định này thể hiện sự công nhận của Khối EFTA đối với các nỗ lực đổi mới nền kinh tế của Việt Nam cũng như mong muốn thúc đẩy quan hệ kinh tế - thương mại thông qua việc đàm phán và ký kết một Hiệp định FTA giữa hai bên. Một khi FTA được ký kết, hàng hóa Việt Nam sẽ được hưởng thuế suất thấp cũng như có cơ chế tiếp cận thị trường các nước EFTA tốt hơn, qua đó nâng cao khả năng cạnh tranh với hàng hóa nhiều nước khác.
Ông Thực cho biết, SPS là biện pháp kiểm định với nhiều nguyên tắc quan trọng nhằm đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm cho sản xuất sản phẩm từ động thực vật, từ đó bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng. Khối EFTA hiện đã ký FTA với 36 quốc gia và đây thực sự là điều kiện tốt để Việt Nam có thể tận dụng mở rộng thị trường. Theo quy định trong Thỏa ước về Khu vực kinh tế châu Âu (EEA) giữa EU và EFTA chính thức có hiệu lực từ năm 1994, hệ thống SPS của khối EFTA áp dụng gần như đồng nhất với hệ thống SPS của các nước EU về tiêu chuẩn đối với nhóm hàng có nguồn gốc động vật, còn đối với nhóm hàng có nguồn gốc thực phẩm hay hàng dược phẩm thì có chút ít khác biệt. Do vậy, để xuất khẩu hàng nông nghiệp, thủy sản sang EFTA thì các doanh nghiệp Việt Nam cũng phải đáp ứng yêu cầu SPS của EU. Điều này cũng đồng nghĩa với việc nếu hàng hóa có nguồn gốc động, thực vật của Việt Nam xuất khẩu sang được EFTA cũng sẽ lưu thông được trong EU và ngược lại.
Tuy nhiên, có thể thấy hiện nay đối với các mặt hàng có nguồn gốc động vậy, Việt Nam chủ yếu xuất sang EU các mặt hàng thủy sản, còn nhiều mặt hàng khác không xuất khẩu được vì quy trình rất phức tạp. Với các mặt hàng nguồn gốc thực vật, yêu cầu cũng rất cao. Trong 5 phiên đàm phán FTA trước đó, đại diện phía Việt Nam cố gắng đưa ra các điều kiện giảm thuế và phía EFTA cũng đã tỏ ra khá thiện chí, tạo cho hàng hóa Việt Nam quy tắc xuất xứ đơn giản để có thể xuất khẩu dễ dàng. Tuy nhiên theo cảnh báo của ông Trực: “Với các tiêu chí quy định trong hệ thống SPS, nếu phía Việt Nam không đạt được thì dù thuế có giảm thấp, cơ hội xuất khẩu cũng rất mong manh”.
Bà Tone Matheson, đại diện khối EFTA về SPS cho biết đối với những sản phẩm có nguồn gốc động, thực vật sẽ có nhiều biện pháp kiểm soát khác nhau, trong đó SPS là hệ thống có mức độ hài hòa hóa cao nhất giữa EFTA với EU. Điều đó có nghĩa là một khi hàng hóa Việt Nam đủ điều kiện sẽ được EU cấp chứng nhận SPS vào EFTA và khi đặt chân vào thị trường này chỉ kiểm tra tại một điểm duy nhất, sau đó hàng hóa được lưu thông tự do. Tuy nhiên nếu trong quá trình kiểm tra phát hiện 1 lô hàng của một cơ sở sản xuất nào đó chưa thỏa mãn các quy định SPS thì 10 lô hàng tiếp theo của chính cơ sở này sẽ bị chặn lại để kiểm tra kỹ lưỡng hơn.
Khi cấp chứng nhận SPS cho bất cứ cơ sở sản xuất nào, EU đều dựa trên sự tin tưởng vào năng lực điều tra, đánh giá của cơ quan quản lý Nhà nước tại nước thứ 3. Tuy nhiên có thể thấy hiện nay tại các quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam, năng lực cấp phép của cơ quan quản lý nhà nước hãy còn nhiều hạn chế, ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Để dần tiến tới xóa bỏ thực trạng này, các chuyên gia EU và EFTA sẽ hỗ trợ kỹ thuật để nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ nhân viên làm việc tại các cơ quan quản lý nhà nước của nước thứ 3. Bà Tone Matheson nhấn mạnh: "Tuy nhiên đây chỉ đơn thuần là sự hỗ trợ, tất cả phụ thuộc vào sự lành mạnh hóa môi trường đầu tư kinh doanh của chính quốc gia đó".
Chuyên viên Văn phòng SPS Việt Nam Trần Việt Cường nhận định: "Thị trường màu mỡ EU đặt ra những tiêu chuẩn rất cao từ khâu sản xuất chế biến cho đến lưu thông để đảm bảo hàng thực phẩm có chất lượng, an toàn đối với người tiêu dùng. Đây vừa là cơ hội cũng vừa là thách thức đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Cơ hội là chỉ cần đặt chân vào bất cứ một quốc gia nào trong EU, hàng hóa Việt Nam cũng đều có thể lưu thông được tại các nước còn lại trong khối liên minh rộng lớn này. Tuy nhiên thách thức là đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam phải chú trọng đẩy mạnh ứng dụng khoa học - kỹ thuật, nâng cao chất lượng, gia tăng giá trị cho sản phẩm đáp ứng yêu cầu khắt khe của các nhà nhập khẩu EU.
Ông Cường cũng đưa ra khuyến nghị các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam nếu gặp bất cứ khó khăn hay sự cố gì cần liên hệ ngay với các tổ chức hiệp hội, ngành hàng hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền để có biện pháp giải quyết ngay từ ban đầu, tránh tình trạng "nước tới chân mới nhảy" như một số vụ kiện hàng hóa Việt Nam gặp phải thời gian qua.
Mỹ Châu
từ ngày 18 – 19/12/2025
VCCI