VJC: Cầu nối cho doanh nghiệp CNTT Việt Nam - Nhật Bản

10:24:15 | 2/12/2014

Câu lạc bộ hợp tác CNTT Việt Nhật (VJC) do Hiệp hội Phần mềm và Dịch vụ CNTT Việt Nam (VINASA) thành lập năm 2003. Với vai trò là cầu nối cho các doanh nghiệp Việt Nam và Nhật Bản trong lĩnh vực CNTT, VJC đã đóng góp tích cực cho sự hợp tác của doanh nghiệp 2 nước trong lĩnh vực này. Để tìm hiểu cụ thể hơn về vấn đề này, Tạp chí Vietnam Business Forum đã có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Đoàn Hùng, Chủ tịch CLB hợp tác CNTT Việt - Nhật (VJC). Lê Sáng thực hiện.

Xin ông điểm lại những kết quả và dấu mốc lớn trong hợp tác CNTT giữa Việt Nam và Nhật Bản cũng như những hoạt động của VJC nhằm tạo cầu nối giữa các doanh nghiệp CNTT hai nước?

Mục đích chính của CLB là thúc đẩy hợp tác kinh doanh của các doanh nghiệp trong CLB với các đối tác. Tên đầy đủ của VJC là Vietnam – Japan IT Cooperation Club. CLB  được thành lập từ năm 2003, chỉ một năm sau sự ra đời của VINASA (khi đó là Hiệp hội Doanh nghiệp phần mềm Việt Nam).

Với chức năng của mình, VJC đã phối hợp cùng VINASA tổ chức nhiều hoạt động kết nối, xúc tiến hợp tác kinh doanh giữa doanh nghiệp CNTT hai nước như: Ngày CNTT Nhật Bản (Japan ICT Day) vào tháng 10 hàng năm tại Việt nam, ngày CNTT Việt Nam (Vietnam IT Day) tại Tokyo vào tháng 2 hàng năm, đoàn giao thương tham gia hội chợ triển lãm phát triển phần mềm (SODEC) ở Tokyo vào tháng 5, đón tiếp, tổ chức hoạt động gặp gỡ tìm kiếm cơ hội kinh doanh cho các đoàn doanh nghiệp Nhật Bản đến Việt Nam. Câu lạc bộ họp định kỳ 2 tháng một lần tại cả Hà Nội và tp. Hồ Chí Minh.

Hơn 10 năm qua, VJC đã đóng góp nhiều hoạt động hữu ích vào việc thúc đẩy hợp tác ngày càng nhiều và hiệu quả hơn giữa các doanh nghiệp CNTT Việt – Nhật trong lĩnh vực CNTT. Với sự đóng góp của VJC, VINASA cùng sự hỗ trợ của Chính phủ 2 nước, sự nỗ lực của các doanh nghiệp, Việt Nam đã từ chỗ không có nhiều hợp tác trong những năm 2000, đến năm 2009 Việt Nam đã là đối tác ưa thích nhất của Nhật. Việt Nam đã vượt qua Ấn Độ trở thành đối tác lớn thứ 2 của Nhật Bản trong hoạt động gia công xuất khẩu phần mềm và dịch vụ.

Đến nay, Việt Nam đã được coi là đối tác số 1 mà các doanh nghiệp CNTT Nhật Bản mong muốn hợp tác. Vậy trong sự hợp tác này các doanh nghiệp CNTT Việt Nam đang ở đâu trong chuỗi giá trị tạo ra, thưa ông?

Trong nhiều cuộc khảo sát được thực hiện bởi chính phủ Nhật Bản, các doanh nghiệp Nhật Bản coi Việt Nam là đối tác số 1 mà họ mong muốn hợp tác. Lý do chính là sự gần gũi về văn hóa, môi trường kinh doanh thuận lợi, trình độ nhân lực khá tốt v.v...Tuy nhiên, vị thế mà các doanh nghiệp nước ta tạo ra vẫn còn khá khiêm tốn, chưa tương xứng với vị trí đối tác yêu thích số 1.

Mặc dù Việt Nam hiện đứng thứ 2 sau Trung Quốc về số lượng đơn hàng với Nhật Bản, nhưng về giá trị mới chỉ bằng 1/30 qui mô của Trung Quốc. Công việc hợp tác chính giữa doanh nghiệp hai nước đến nay mới chỉ là gia công các công việc lập trình, sử dụng nhiều nguồn nhân lực của Việt Nam. Tuy nhiên một số doanh nghiệp Việt Nam đã có đủ năng lực và khả năng nhận những công việc phức tạp hơn trong lĩnh vực nghiên cứu và phát triển (R&D) và thực tế cho thấy các doanh nghiệp Việt Nam có khả năng làm rất tốt các công việc này. Với trình độ năng lực công nghệ ngày càng tốt hơn, doanh nghiệp Việt Nam ngày càng nhận được nhiều hợp đồng khó hơn, giá trị hợp đồng lớn hơn, số lượng nhân lực tham gia vào dự án nhiều hơn. Vừa qua Công ty FPT Software đã ký được hợp đồng hợp tác công việc với giá trị lên đến trên 4 triệu USD với Nhật Bản. Điều này cho thấy vị trí của Việt Nam trong chuỗi giá trị hợp tác với Nhật Bản sẽ dần thay đổi

Theo ông, từ thực tế hơn 10 năm hoạt động của VJC thì đâu là những bài học cho các doanh nghiệp CNTT Việt Nam khi hợp tác với các đối tác Nhật Bản?

Từ thực tế hợp tác giữa các doanh nghiệp Việt Nam và Nhật Bản trong 10 năm qua có thể thấy, các doanh nghiệp Nhật Bản rất khó tính trong việc lựa chọn đối tác. Theo khảo sát của Hiệp hội Phần mềm và Dịch vụ CNTT Việt Nam – VINASA, phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam gặp phải vấn đề về ngôn ngữ, kỷ luật làm việc khi hợp tác với đối tác Nhật.

Để hợp tác bền vững với doanh nghiệp Nhật Bản, không những đội ngũ lãnh đạo phải là người am hiểu ngôn ngữ và văn hóa Nhật Bản, đội ngũ kỹ sư của công ty cũng có những yêu cầu khắt khe trong việc hợp tác. Hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp có sự hợp tác với Nhật Bản đều theo học những khóa học bằng tiếng Nhật để nâng cao kiến thức cũng như tìm hiểu nền văn hóa nước bạn. Các doanh nghiệp Việt Nam cũng cố gắng cung cấp những sản phẩm đến tới khách hàng với giá thành thấp nhưng chất lượng cao nhằm nâng cao sự hài lòng từ phía khách hàng từ phía Nhật Bản.

Định hướng trong thời gian tới của VJC nhằm đẩy mạnh cả về chất và lượng của mối quan hệ hợp tác CNTT giữa hai nước, thưa ông?

Việt Nam đang đứng trước cơ hội vô cùng lớn để đẩy mạnh hợp tác, mở rộng thị phần hợp tác với các đối tác Nhật Bản. Các doanh nghiệp Việt Nam cần chuẩn bị năng lực, các nguồn lực thật tốt sẵn sàng cho cơ hội hợp tác lớn này.

Bên cạnh đó, sự thiếu hụt nguồn nhân lực CNTT biết tiếng Nhật hiện nay dẫn đến tình trang chi phí cho nguồn nhân lực tăng nhanh. Việc ngày càng nhiều doanh nghiệp Nhật tuyển dụng trực tiếp nhân lực từ Việt Nam sang làm việc tại Nhật khiến các thách thức về nguồn nhân lực tại Việt Nam càng trầm  hơn, tôi mong rằng các doanh nghiệp Việt Nam sẽ đoàn kết với nhau hơn nữa để đối phó tình huống này.

Với vai trò là cầu nối giữa các doanh nghiệp CNTT của hai nước, VJC chúng tôi sẽ hoạt động tích cực hơn nữa để đảm bảo sự hợp tác chặt chẽ và công bằng (fair play) giữa các doanh nghiệp nhằm đẩy mạnh cả về chất và lượng của mối quan hệ  hợp tác giữa hai nước.