Xuất khẩu gạo: Bỏ qua cơ hội được giá?

08:54:43 | 16/9/2010

Vào đầu tháng 8, Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) đã đề xuất xin nâng khối lượng gạo xuất khẩu trong năm nay lên 6,5 triệu tấn, nhưng Ban chỉ đạo điều hành xuất khẩu gạo định hướng xuất 6,1 triệu tấn. Chính vì đầu ra hạn chế, nên VFA đã liên tiếp ba lần tăng giá sàn xuất khẩu gạo trong tháng 8. Xuất khẩu gạo đang được giá nhưng kim ngạch không còn bao nhiêu.

Hiện nay, giá sàn xuất khẩu gạo 5% tấm là 450 USD/tấn; gạo 25% tấm có giá sàn 410 USD/tấn. Khối lượng gạo xuất khẩu trong 8 tháng đầu năm lên tới 4,8 triệu tấn. Còn trong 4 tháng cuối năm, thời điểm giá cao ngất ngưởng thì lại chỉ được xuất có 1,3 triệu tấn gạo.

Nỗi lo an ninh lương thực

Năm 2008 và 2009, lượng gạo xuất khẩu và diễn biến giá xuất khẩu luôn có chiều hướng nghịch nhau, khi thị trường đạt mức cao nhất thì lo ngại về an ninh lương thực và lạm phát trong nước cao đã dẫn đến thực thi chính sách ngưng xuất khẩu. Năm nay, cũng không nằm ngoài mối lo đó.

Năm 2009, Việt Nam đã xuất 6 triệu tấn gạo, vẫn còn dư 1 triệu tấn chuyển sang năm 2010. Năm nay, cùng với các cơn mưa, nỗi lo hạn hán không còn, sản lượng gạo được dự báo đạt cao. Trả lời báo chí, Cục trưởng Cục Trồng trọt Nguyễn Trí Ngọc cho biết: Cả nước đã thu hoạch được hơn 26 triệu tấn thóc của vụ đông xuân và vụ hè thu, và từ nay đến cuối năm sẽ cố gắng đạt sản lượng 13 triệu tấn thóc nữa ở vụ hè thu và vụ mùa. Khả năng năm nay xuất khẩu gạo có thể đạt mức 6,5 triệu tấn, thậm chí có thể tính đến mốc 7 triệu tấn. Năm nay, sản lượng lúa gạo thu hoạch tiếp tục tăng, đấy là chưa kể nguồn bổ sung do nông dân của chúng ta sang thuê ruộng ở Campuchia để trồng lúa và đưa thóc về nước. Các năm trước, lượng thóc này đem từ Campuchia về khoảng 300-400 nghìn tấn, thì năm nay sẽ có khoảng 1 triệu tấn thóc từ nguồn này.

Tuy nhiên, nỗi lo an ninh lương thực vẫn hạn chế xuất khẩu dù được giá, chính từ việc các cơ quan điều hành xuất khẩu gạo không nắm chắc được con số thống kê về nguồn cung gạo trong nước. Ngay cả số lượng gạo đã xuất khẩu, mỗi cơ quan, mỗi bộ, ngành lại đưa ra những con số rất khác nhau.

Hiện các doanh nghiệp đã ký được hơn 6 triệu tấn, nếu được “bật đèn xanh” thì việc xuất khẩu 6,5 – 7 triệu tấn hoàn toàn khả thi. Nhưng số liệu tồn kho trong doanh nghiệp không đáng tin cậy bởi doanh nghiệp thường ký hợp đồng rồi mới tiến hành thu mua, đồng thời không thể tính được khối lượng hiện còn dự trữ trong dân, nên không thể nắm chắc số lượng. Chính điều này khiến các nhà điều hành thận trọng trong việc xuất khẩu gạo.

Đứng trên vai trò điều hành, sự thận trọng là hợp lý, nhưng đứng về lợi ích doanh nghiệp và nông dân thì có vấn đề. Từ đầu năm đến giữa năm 2010 là thời điểm giá thấp thì doanh nghiệp đã xuất rất nhiều. Nông dân đã bị ép giá thấp do giá xuất khẩu thấp. Khi nhu cầu thị trường thế giới đạt mức giá cao, là cơ hội tốt để doanh nghiệp tăng tốc xuất khẩu thu lợi nhuận cao và sẵn sàng thu mua lúa giá cao của người nông dân, thì họ bị khống chế xuất khẩu.

Chia sẻ lợi ích với người nông dân

Chính phủ luôn định hướng bảo đảm người nông dân có lãi 30% khi sản xuất lúa gạo. Tuy nhiên, người nông dân vẫn phải diễn mãi điệp khúc được mùa rớt giá, trong khi các chính sách hỗ trợ của nhà nước không tới tay nông dân.

Đến hết tháng 7/2010, VFA đã xuất khẩu 4.664.000 tấn gạo, đạt kim ngạch 2,281 tỷ USD, giá bình quân là 489 USD/ tấn gạo. Mùa đông xuân VFA mua lúa giá 4.000 đồng/kg, mùa hè thu VFA đưa ra giá mua 3.500 đồng/kg.

Trả lời báo chí, Thạc sĩ Dương Nghĩa Quốc, giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Đồng Tháp cho biết: nông dân trong tỉnh đang chịu lỗ từ 300 đến 600 đồng/kg lúa vụ hè thu 2010: “ Theo tính toán của ngành nông nghiệp và UBND tỉnh Đồng Tháp, giá thành sản xuất một ký lúa hè thu đã lên đến gần 3.100 đồng, trong khi giá thu mua lúa tại ruộng chỉ dao động khoảng 2.500 đồng/kg đến 2.800 đồng/kg”.

Trước tình trạng giá lúa gạo xuống thấp trong khi mùa thu hoạch, Chính phủ đã hỗ trợ mua tạm trữ gạo, nhưng lợi ích của chương trình này không tới tay người nông dân. Các doanh nghiệp luôn vì lợi ích của họ trước, rồi mới tính đến lợi ích của nông dân. Kho dự trữ cũng thiếu, nên doanh nghiệp cũng không dám thu mua dự trữ lâu, nếu mua gạo rồi thì họ phải bán ra ngay, không đợi lúc giá cao được.

Doanh nghiệp (DN) được giao nhiệm vụ không được mua dưới giá 3.500 đồng/kg lúa, tương đương khoảng 300 USD/tấn gạo xuất khẩu. Kiến nghị Chính phủ có chính sách giãn nợ vay ngân hàng, giúp bà con không bị sức ép nợ đáo hạn. Theo tính toán của VFA, lượng lúa hàng hóa vụ hè thu khoảng 2 triệu tấn. Lãnh đạo các tỉnh đều đồng tình khi cho rằng, cần phải có giá sàn và mua làm sao để bà con nông dân có lời. Nếu mua theo giá thị trường dưới 4.000 đồng/kg nông dân không có lời. Có nơi giá thành cao, sản xuất càng nhiều càng lỗ.

Bài toán đặt ra ở đây là làm sao chính sách hỗ trợ, ưu đãi của chính phủ đến được với người nông dân. Không thể chia tiền cho nông dân vì việc này không thúc đẩy tiêu thụ lúa gạo, nhưng nhà nước cần đứng ra mua lúa tạm trữ sau đó mở khó bán lại cho doanh nghiệp. Bài học từ mô hình của Thái Lan: Nông dân sản xuất ra bao nhiêu lúa, nhà nước đều mua hết, cất vào kho. Khi giá lên cao, thì nhà nước mới mở kho bán cho doanh nghiệp xuất khẩu, rồi doanh nghiệp mới bán ra nước ngoài. Có như vậy, người nông dân mới bảo đảm sản xuất có lãi, doanh nghiệp không liên quan đến chính sách thu mua tạm trữ của Chính phủ.

Kim Nhung