Hiệp hội thuốc lá Việt Nam: 30 năm tiếp tục hành trình

15:07:22 | 24/6/2019

Thành lập Ngày 16/8/1989,  trải qua 30 năm xây dựng và phát triển, Hiệp hội Thuốc lá Việt Nam đã thực sự trở thành cầu nối và niềm tin của cộng đồng doanh nghiệp thuốc lá, đóng góp đáng kể vào sự nghiệp phát triển kinh tế của cả nước. Đại hội lần thứ VII và lễ kỷ niệm 30 năm ngày thành lập Hiệp hội đã ghi nhận tinh thần đoàn kết, thống nhất trong toàn Hiệp hội và sự tin tưởng, trông đợi vào Ban chấp hành mới của Hiệp hội với nhiều kiến nghị từ các đơn vị hội viên.

Chặng đường ghi dấu nhiều nỗ lực

Trong 30 năm qua, Hiệp hội Thuốc lá Việt Nam đã nộp ngân sách tăng trung bình là 11,3%/năm, đến năm 2018 con số nộp NSNN đã tăng lên 18.009,9 tỷ đồng. Nhiều hội viên đang là đơn vị dẫn đầu nộp ngân sách tại địa phương. Hiệp hội Thuốc lá Việt Nam đã luôn sát cánh cùng các cơ quan quản lý nhà nước trong cuộc chiến chống thuốc lá nhập lậu. Toàn ngành đã nỗ lực chống thuốc lá lậu thông qua nhiều hình thức, trong đó việc quan trọng nhất là các hội viên đã nỗ lực phát triển các sản phẩm đủ sức cạnh tranh với các sản phẩm thuốc lá nhập lậu, xây dựng thương hiệu gắn với chất lượng sản phẩm, xây dựng thành công hệ thống phân phối thống nhất qua nhiều cấp để chống thuốc lá nhập lậu thâm nhập. Thực hiện Chỉ thị 30/CT-TTg của Thủ tường Chính phủ, Hiệp hội đã tích cực phối hợp với các lực lượng chức năng, các cơ quan truyền thông trong công tác tăng cường đấu tranh phòng, chống buôn lậu thuốc lá. Nâng cao nhận thức của người dân không tham gia, không tiếp tay cho buôn lậu.

Hiệp hội Thuốc lá Việt Nam đã phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Trung ương và Mặt trận Tổ quốc các tỉnh An Giang, Cần Thơ, Đồng tháp, Long An, Tây Ninh tổ chức 9 cuộc hội thảo về hệ lụy của việc vận chuyển, tàng trữ, buôn bán thuốc lá điếu nhập lậu với trên 1.500 đại biểu tham dự, trong đó có nhiều cư dân các vùng biên giới giáp ranh với Campuchia có nguy cơ tham gia vận chuyển thuốc lá lậu rất cao … Bên cạnh hoạt động sản xuất kinh doanh, Hiệp hội đã tích cực thực hiện các chương trình trách nhiệm xã hội. Trong giai đoạn 2013-2018,  Hiệp hội đã trao được 754 cănnhà tình nghĩa, tình thương;phụng dưỡng 238 bà mẹ Việt nam anh hùng và thương binh; hỗ trợ theo Chương trình Nghị quyết 30A của Chính phủ được 30,080 tỉ đồng. Tổng số tiền Hiệp hội đã hỗ trợ cho công tác xã hội là: 329,066 tỉ đồng.

Nhiều trông đợi và hy vọng

Tại Đại hội Hiệp hội Thuốc lá Việt Nam lần thứ VII tổ chức ngày 19/6/2019, toàn thể hội viên đã nhất trí tuyệt đối bầu Ban Chấp hành và Lãnh đạo Hiệp hội nhiệm kỳ mới. Cũng tại sự kiện, với mục tiêu để ngành Thuốc lá Việt Nam hoạt động đúng các quy định của pháp luật, các hội viên đã đề xuất các cơ quan liên quan có thẩm quyền một số kiến nghị:

Cụ thể là: Sửa đổi, bổ sung Nghị định 67/2013 /NĐ-CP cho phù hợp với hoạt động của ngành, theo đó, bỏ các quy định về quản lý năng lực máy móc thiết bị, vừa thực hiện mục tiêu kiểm soát việc tiêu thụ thuốc lá, vừa tiết kiệm được nguồn nhân lực của các doanh nghiệp; kiến nghị giao Quỹ Phòng chống tác hại của thuốc lá cho Bộ Tài chính quản lý, điều phối theo chức năng nhiệm vụ và trích  50% Quỹ này để hỗ trợ cho các lực lượng chức năng trực tiếp đấu tranh chống buôn lậu; quan tâm quản lý chặt chẽ hơn hoạt động mua bán nguyên liệu thuốc lá tại các địa phương có vùng trồng, tăng cường công tác hậu kiểm theo quy định.

Tổng công ty Thuốc lá Việt Nam – Vinataba kiến nghị: Xây dựng một Nghị định mới, thực chất, khả thi, có khả năng điều chỉnh hiệu quả, ổn định và lâu dài hoạt động kinh doanh thuốc lá tại Việt Nam. Nghị định 67quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật phòng, chống tác hại của thuốc lá về kinh doanh thuốc lá được ban hành ngày 27 tháng 06 năm 2013, có hiệu lực từ 15 tháng 8 năm 2013; được sửa đổi bổ sung bởi Nghị định 106/2017/NĐ-CP và Nghị định 08/2018/NĐ-CP. Trong sáu năm qua, Nghị định 67 và các văn bản sửa đổi, bổ sung đã có đóng góp không nhỏ trong việc hoàn thiện khung pháp lý điều chỉnh hoạt động kinh doanh thuốc lá, đưa hoạt động của các tổ chức, cá nhân trong ngành thuốc lá đi vào nề nếp hơn trước đây. Tuy nhiên, cùng với sự thay đổi của môi trường đầu tư, kinh doanh, sự chuyển dịch trong sử dụng sản phẩm thuốc lá và các sản phẩm thay thế sản phẩm thuốc lá, Nghị định 67 đã bộc lộ một số bất cập, đặt ra nhu cầu cần được sửa đổi, hoàn thiện.

Thứ nhất, Nghị định mới cần giữ nguyên quy địnhdoanh nghiệp sản xuất thuốc lá điếu đầu tư trồng cây thuốc látheo hình thức liên kết đầu tưlà đủ điều kiện được cấp Giấy phép sản xuất sản phẩm thuốc lá như Nghị định 67.

Thứ hai, Nghị định mới cần bổ sung việc cấp Giấy phép sản xuất sản phẩm thuốc lá cho nhóm Công ty mẹ - công ty con.Việc cấp Giấy phép cho nhóm Công ty mẹ - công ty con vừa giúp doanh nghiệp nhà nước khai thác tốt hơn nguồn lực trong toàn hệ thống vừa giúp tuân thủ chặt chẽ quy định pháp luật, giữ được lợi thế của doanh nghiệp Việt Nam trong hoạt động thành lập liên doanhsản xuất sản phẩm thuốc lá với đối tác nước ngoài.

Thứ ba,Nghị định mới và Luật Phòng, chống tác hại của thuốc lá cần xem xét bỏ cơ chế quản lý năng lực máy, thiết bị chuyên ngành thuốc lá.Mục tiêu của việc kiểm soát năng lực máy móc, thiết bị là để kiểm soát sản lượng thuốc lá tiêu thụ trong nước. Tuy nhiên việc kiểm soát sản lượng này đã được thực hiện ngay từ khâu cấp phép sản xuất, thông qua sản lượng thuốc lá được phép sản xuất và nhập khẩu ghi trong Giấy phép sản xuất sản phẩm thuốc lá cũng như thông qua việc cấp tem thuốc lá. Do đó, việc kiểm soát năng lực máy móc, thiết bịlà không cần thiết, gây ra nhiều khó khăn cho doanh nghiệp trong quá trình đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, sản xuất nhiều định dạng điếu khác nhau.

Thứ tư,Nghị định mới nên điều chỉnh quy định “phải sử dụng” thành “khuyến khích sử dụng trên 50% nguyên liệu thuốc lá được trồng trong nước thay thế cho nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất các nhãn thuốc lá trong nước”.Đặc điểm của thuốc lá là phối chế theo gu đối với từng nhãn thuốc.Đối với một số nhãn thuốc, nguyên liệu sản xuất trong nước chưa phù hợpđể thay thế nguyên liệu nhập khẩu, nếu buộc phải sử dụng trên 50% nguyên liệu trong nước, có thể dẫn đến việc phối không theo gu/không ra được gu của sản phẩm, hệ quả là không đảm bảo được hiệu quả phối chế và sản xuất. Hơn nữa, việc “phải sử dụng trên 50% nguyên liệu thuốc lá trong nước” cũng đặt ra dấu hỏi về tính phù hợp với quy định của cácluật và văn bản quy phạm pháp luật hiện hành kháccủa Việt Nam cũng như nguyên tắc và quy định tại các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

Thứ năm, Nghị định mới cần quy định “thuốc lá giả, thuốc lá nhập lậu đều bị tịch thu để tiêu hủy toàn bộ”. Vấn nạn buôn lậu thuốc lá thời gian vừa qua diễn biến hết sức phức tạp, làm thất thu ngân sách, ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng, xâm phạm nghiêm trọng quyền và lợi ích của các doanh nghiệp sản xuất thuốc lá hợp pháp. Quyết định 20/2018/QĐ-TTg cho phép thí điểm bán đấu giá thuốc lá ngoại nhập lậu bị tịch thu đảm bảo chất lượng để xuất khẩu ra nước ngoài thay vì tiêu hủy toàn bộ như trước đây đã khiến việc xử lý thuốc lá nhập lậu bị tịch thu ách tắc, ảnh hưởng đến nỗ lực đấu tranh chống thuốc lá lậu. Việc quy định “thuốc lá giả, thuốc lá nhập lậu đều bị tịch thu để tiêu hủy toàn bộ” là hết sức cần thiết, vừa giúp giải tỏa ách tắc nêu trên, vừa giúp ngành thuốc lá chung tay cùng các lực lượng chức năng chống thuốc lá lậu có hiệu quả hơn thông qua cơ chế của Quỹ hỗ trợ phòng chống buôn lậu thuốc lá (áp dụng đối với thuốc lá nhập lậu bị tịch thu và tiêu hủy).

Thứ sáu, thuốc lá làm nóng và thuốc lá điện tử nên được quy định trong một văn bản quy phạm pháp luật riêng thay vì quy định chung với thuốc lá truyền thống trong cùng Nghị định mới. Thuốc lá làm nóng và thuốc lá điện tử là những sản phẩm đặc thù, có tính chất khác biệt với thuốc lá truyền thống. Do đó quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động sản xuất, nhập khẩu, phân phối và các hoạt động khác có liên quan đếnthuốc lá làm nóng và thuốc lá điện tử cần được thiết kế theo cơ chế riêng biệt với thuốc lá truyền thống, nhằm đảm bảo hiệu quả quản lý và phù hợp với xu thế chung của quốc tế.

Hiệp hội Thuốc lá Việt Nam cũng kiến nghị:  Thứ nhất, hiện nay thuốc lá lậu đang được bày bán công khai từ các chợ đầu mối đến các tủ bán lẻ; người tiêu dùng dễ dàng mua được thuốc lá lậu ở tất cả mọi nơi, trong khi công tác tuyên truyền về những hệ lụy của vấn nạn buôn lậu thuốc lá lại còn rất nhiều hạn chế, không được tiến hành một cách thường xuyên, liên tục. Mục tiêu cơ bản và then chốt là phải hạn chế tối đa, không cho thuốc lá lậu dễ dàng tiếp cận được với người tiêu dùng. Vì vậy Hiệp hội kiến nghị Chính phủ, Bộ Công thương chỉ đạo các lực lượng chức năng trên địa bàn tích cực rà soát, kiểm tra các tụ điểm, đầu nậu buôn bán, tàng trữ thuốc lá nhập lậu; Đặc biệt thường xuyên tăng cường công tác kiểm tra việc bày, bán thuốc lá nhập lậu tại các tủ, quầy, cửa hàng, nhà hàng, khách sạn để kịp thời phát hiện, kiên quyết xử lý các tổ chức, cá nhân vi phạm cũng như tăng cường việc tuyên truyền để nâng cao tính răn đe.

Thứ hai, tuyên truyền sâu rộng trong toàn xã hội bài trừ thuốc lá nhập lậu.Các cơ quan, ban ngành trung ương và địa phương cần nêu gương,yêu cầu cán bộ, Đảng viên, người lao động làm việc trong bộ máy hành chính nhà nước và doanh nghiệp không được hút thuốc lá nhập lậu.

Thứ ba, kiến nghị Chính phủ và các Bộ ngành liên quan trình Quốc hội sửa đổi, bổ sung Luật Phòng chống tác hại của thuốc lá theo hướng quy định Quỹ Phòng chống tác hại của thuốc lá có nhiệm vụ hỗ trợ cho các lực lượng chức năng (công an, biên phòng, hải quan và QLTT) trong công tác đấu tranh phòng chống thuốc lá nhập lậu; hỗ trợ kinh phí, trang thiết bị, phương tiện, biên chế cho các lực lượng trực tiếp thi hành công tác chống buôn lậu thuốc lá.

Văn Lượng