Xuất khẩu: Vượt kỳ vọng

10:00:32 | 3/1/2012

Liên tiếp phá vỡ những kỷ lục về tăng trưởng giá trị và sản lượng, xuất khẩu năm 2011 đã trở thành lĩnh vực đầu tàu của toàn bộ nền kinh tế, tạo động lực phát triển cho một số ngành khác. Tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu lên tới 33%, mức cao nhất trong vòng 14 năm trở lại đây, gấp 3 lần mục tiêu kế hoạch đã đề ra.

Một năm thành công

Thứ trưởng Bộ Công thương Nguyễn Thành Biên cho biết, kim ngạch xuất khẩu của cả nước trong năm 2011 đạt 96,3 tỷ USD. Nhiều mặt hàng nông sản, thực phẩm, đồ gỗ, thủ công mỹ nghệ của VN được đánh giá cao ở thị trường quốc tế. Việc giá trị xuất khẩu tăng cao hơn nhập khẩu đã đóng góp lớn cho sự phát triển kinh tế, góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội.

Tổng kim ngạch xuất khẩu đã vượt xa mức 80 tỷ kế hoạch đề ra, tăng 24 tỷ USD so với năm trước – mức tăng kỷ lục từ trước tới nay. Xét về tỷ suất đóng góp của xuất khẩu vào GDP của toàn bọ nền kinh tế, con số này chiếm tới 80%, kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người ước cả năm sẽ vượt qua mốc 1.083 USD.

Năm 2011 ghi nhận mức tăng về số lượng các mặt hàng được ghi tên vào danh sách “câu lạc bộ hàng xuất khẩu trên 1 tỷ USD”, có 23 mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, trong đó có 5 mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu trên 5 tỷ USD, đó là hàng dệt và may mặc, dầu thô, điện thoại các loại và linh kiện, giầy dép, thủy sản.

Giá xuất khẩu tăng cao là nguyên nhân quan trọng đóng góp vào kỷ lục chung của toàn ngành xuất khẩu. Theo tính toán của Bộ Công Thương, so với cùng kỳ, giá bình quân nhiều nhóm hàng nông sản như nhân điều, cà phê, hạt tiêu tăng 66,5% có mức tăng xấp xỉ 50%, gạo tăng 9,1%, cao su tăng 37,3%, than đá tăng 17,3%, dầu thô tăng 43,6,...

Xét về lượng, so với cùng kỳ, rất nhiều nhóm hàng có lượng xuất khẩu tăng đột biến, điển hình là sắt thép tăng tới 43,4%, sắn và các sản phẩm sắn tăng 58,5%, sắt thép tăng 43,4... Tuy nhiên, một số nhóm/mặt hàng lượng xuất khẩu giảm như: than đá, chất dẻo nguyên ...

Xét theo thị trường, xuất khẩu sang các thị trường đều có mức tăng trưởng khá cao: xuất khẩu sang ASEAN tăng 30,6% và chiếm tỷ trọng 14,1%; xuất khẩu sang Nhật Bản tăng 38,2% và chiếm tỷ trọng 11,0%; xuất khẩu sang thị trường Mỹ tăng 19,2% và chiếm tỷ trọng hơn 17,6%; xuất khẩu sang EU tăng 48,2% và chiếm tỷ trọng 17,0%. Thứ chín, về thị trường, có 23 thị trường đạt kim ngạch từ 1 tỷ USD trở lên, trong đó có 7 thị trường đạt từ 2 tỷ USD trở lên, cao nhất là Mỹ, tiếp đến là Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đức, Malaysia, Australia.

Theo thống kê của Tổng cục Hải quan, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu cả nước năm 2011 lần đầu tiên vượt ngưỡng 200 tỷ USD. Đáng chú ý hơn, tốc độ tăng so với năm trước của tổng kim ngạch xuất khẩu cao hơn của tổng kim ngạch nhập khẩu (33% so với 25%), nên nhập siêu đã giảm cả về kim ngạch, cả về tỷ lệ nhập siêu so với năm trước. Về kim ngạch tuyệt đối còn 10 tỷ USD so với 12,6 tỷ USD. Tỷ lệ nhập siêu còn 10,4% so với 17,5%. Thành tích xuất nhập khẩu có sự đóng góp rất lớn từ các hiệp định thương mại (FTA) song phương và đa phương, các DN đã nắm được cơ hội từ việc ưu đãi thuế quan mà FTA mang lại

Dự báo xuất khẩu 2012

Những kết quả đáng mừng trong năm 2011 của ngành xuất khẩu Việt Nam vẫn không làm giảm bớt những lo ngại cho các doanh nghiệp vào năm 2012, khi mà nhiều nguyên nhân như nợ công gia tăng, tình trạng thất nghiệp tăng tại các thị trường xuất khẩu trọng điểm khiến các đơn đặt hàng sụt giảm đáng kể. Đó là chưa kể đến những phức tạp mà hàng hóa Việt phải đối mặt khi nhiều nước tiếp tục dựng lên các hàng rào kỹ thuật, bảo hộ. Chính vì vậy, kế hoạch xuất khẩu năm 2012 “khiêm tốn” hơn rất nhiều so với mức tăng trưởng năm nay, chỉ tăng 12-13%.

Thị trường châu Âu (EU) – thị trường trọng điểm chiếm tới 48% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam có nguy cơ cắt giảm tổng cầu nhiều nhất. Một số nước đã phải áp dụng chính sách “thắt lưng buộc bụng” cộng hưởng với sự tranh chấp về đồng tiền chung – riêng của các quốc gia thành viên EU, khiến cánh cửa cho hàng hóa Việt Nam vào thị trường này hẹp hơn. Dệt may - mặt hàng đứng đầu toàn ngành về giá trị xuất khẩu cũng bị sụt giảm đơn đặt hàng cho năm 2012. Tính đến thời điểm hiện nay, nhiều DN chỉ có đơn hàng cho hết quý I-2012, đang phải đàm phán đơn hàng cho quý II-2012.

Tại Hội nghị Tham tán thương mại 2011 mới được tổ chức, ông Trần Công Thực, Tham tán thương mại VN tại EU cho biết, năm 2012 EU sẽ thay đổi một số chính sách liên quan đến vấn đề ưu đãi cho các nước đang phát triển, thay vì họ quy định cho những nhóm hàng thì nay họ có thể quy định thị phần hoặc chia nhỏ số lượng hàng xuất khẩu của từng quốc gia vào EU. Với cách làm này, nhiều khả năng một số mặt hàng của VN sẽ bị đẩy ra khỏi danh sách được hưởng quy chế ưu đãi như trước đây.

Ông Trần Công Thực chỉ ra một số thay đổi trong chính sách nhập khẩu tại các quốc gia EU như quy định kiểm tra về động thực vật khắt khe hơn. EU có thể sớm áp dụng thêm các quy định dán nhãn mác vào sản phẩm….

Đối với thị trường Hoa Kỳ, nước này đang thực hiện đạo luật hiện đại hóa an toàn vệ sinh thực phẩm như xây dựng các biện pháp giám sát, truy suất nguồn gốc, lưu trữ hồ sơ, cho phép các cơ quan chức năng được phép thu hồi sản phẩm ngay khi vụ việc xảy ra. Nếu các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản trong nước không đầu tư, đáp ứng các tiêu chuẩn khắt khe mới này thì khó tránh nguy cơ hàng hóa bị tiêu hủy.

Bên cạnh có khăn về suy giảm đơn đặt hàng, sức cạnh tranh của hàng hóa Việt đang ngày một yếu đi. Bộ NN&PTNT mới đây vừa đưa ra cảnh báo, 50% sản lượng lúa gạo đầu năm 2012 được gieo trồng sử dụng giống lúa chất lượng thấp IR50404. Hiện nay, một số nước đã tạm ngừng nhập khẩu gạo chất lượng thấp như vậy. Điều này đồng nghĩa với việc rất có thể 50% sản lượng lúa năm 2012 của Việt Nam bị tồn kho nếu không xuất khẩu được. Hơn nữa, giá gạo xuất khẩu đang giảm do Ấn Độ và Myanmar bán rẻ hơn vào EU. EU đã cam kết nhập khẩu gạo từ Thái Lan, Campuchia nhưng lại chưa ký kết với VN.

Năm 2012, lợi thế về giá xuất khẩu sẽ không được duy trì, giá một số mặt hàng nguyên vật liệu, nông sản như cà phê, bông, gạo… bất ổn và giảm đáng kể. Để đối phó những thiệt hại lớn khi thay đổi về giá, kinh nghiệm của xuất khẩu gạo cho thấy vấn đề thu mua dự trữ rất quan trọng. Nhờ xây dựng hệ thống kho bãi tốt, nhiều doanh nghiệp đã chủ động tích trữ gạo, không để phía nhập khẩu ép giá. Đây là bài học không chỉ cho mặt hàng gạo, mà là kinh nghiệm chung cho các loại nông sản của nước ta như cà phê, hồ tiêu… Ông Nguyễn Thành Biên – thứ trưởng Bộ Công Thương phân tích, Việt Nam có lợi thế lớn trên thị trường thế giới về nông sản như đứng thứ nhất về XK hồ tiêu, đứng thứ 2 về xuất khẩu gạo, cà phê…, nên chúng ta hoàn toàn có thể điều tiết giá các mặt hàng này trên thị trường một cách ổn định không bị các nhà nhập khẩu nước ngoài ép giá, tránh hiện tượng được mùa mất giá, hay giá cao nhưng không có hàng để xuất khẩu.

Hương Ly