Chuyển đổi mô hình tăng trưởng - động lực từ TFP và đầu tư công

10:14:14 | 29/12/2025

Để lọt vào nhóm các nền kinh tế tăng trưởng cao với GDP tăng trên 10%, Việt Nam phải chuyển đổi căn bản mô hình tăng trưởng từ chiều rộng sang chiều sâu, trong đó, hoàn thiện thể chế, cải thiện năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) và cải cách đầu tư công là những giải pháp chiến lược.

Theo báo cáo của Viện Chiến lược và Chính sách kinh tế - tài chính - Bộ Tài chính (NIEF), sau 5 năm thực hiện Nghị quyết số 31/2021/QH15 của Quốc hội về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021 - 2025, đến nay chỉ có 23/27 chỉ tiêu có thông tin đánh giá. Trong đó, có 10/23 chỉ tiêu có khả năng hoàn thành, 9/23 chỉ tiêu khó có khả năng hoàn thành và 4/23 chỉ tiêu dự kiến không hoàn thành. 4 chỉ tiêu không hoàn thành là: tăng năng suất lao động; số lượng các doanh nghiệp; số lượng hợp tác xã nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao; tỷ lệ hợp tác xã nông nghiệp liên kết với doanh nghiệp theo chuỗi giá trị; tỷ trọng chi cho khoa học và công nghệ.

Đối với 5 nhóm nhiệm vụ trọng tâm giai đoạn 2021-2025, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 54/NQ-CP với 102 nhiệm vụ. Đến nay, 86/102 nhiệm vụ đã hoàn thành (chiếm 84,3%). Nguyên nhân khiến việc thực hiện kế hoạch tái cơ cấu nền kinh tế chưa đạt được kết quả như kỳ vọng là tiến độ xây dựng thể chế, chính sách chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu phát triển; cơ cấu kinh tế và mô hình tăng trưởng có tiến bộ nhưng chưa tạo ra nhiều thay đổi đáng kể; các ngành kinh tế chưa có chuyển dịch mạnh mẽ về tăng năng suất, nhất là khu vực công nghiệp và dịch vụ; cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập còn chậm, chưa đáp ứng kỳ vọng.

Theo PGS.TS. Lê Xuân Bá, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM), để lọt vào nhóm các nền kinh tế tăng trưởng cao với GDP tăng trên 10%, Việt Nam không thể tiếp tục dựa vào mô hình tăng trưởng theo chiều rộng, khai thác chủ yếu vốn và tài nguyên. Yếu tố quyết định sự chuyển đổi mô hình tăng trưởng chính là TFP. Đây là thước đo hiệu quả tổng thể của các yếu tố như thể chế, quản trị quốc gia, quản trị doanh nghiệp và khoa học công nghệ,…

PGS.TS. Lê Xuân Bá cho rằng, mặc dù đóng góp của TFP vào tăng trưởng GDP có xu hướng tăng (đạt khoảng 46,4% vào năm 2024), nhưng để tạo ra sự khác biệt và duy trì mức tăng trưởng hai chữ số, tỷ lệ đóng góp này cần phải được đẩy lên mức trên 50%. “Việc đột phá TFP đòi hỏi một loạt các giải pháp đồng bộ, mà cốt lõi là hoàn thiện thể chế kinh tế để thể chế không còn là điểm nghẽn của điểm nghẽn”, PGS.TS. Lê Xuân Bá nhấn mạnh.

Bên cạnh đó, cần thúc đẩy mạnh mẽ các mô hình kinh tế mới, đặc biệt là khu vực kinh tế tư nhân, nhằm phát huy tối đa vai trò là động lực tăng trưởng. Đối với lĩnh vực khoa học - công nghệ và năng suất, cần xây dựng các chương trình đầu tư chiến lược vào Nghiên cứu và Phát triển (R&D), ứng dụng công nghệ cao, qua đó gia tăng đáng kể đóng góp của TFP vào tăng trưởng kinh tế. Đặc biệt, cần tái cơ cấu theo chiều sâu với việc tập trung nguồn lực vào các ngành, lĩnh vực có giá trị gia tăng cao, đặc biệt là công nghiệp chế biến, chế tạo có hàm lượng công nghệ cao.

Đồng thời, đẩy mạnh phát triển kinh tế xanh, kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, kinh tế dữ liệu. Mô hình này đòi hỏi phải lượng hóa được các chỉ tiêu đo lường, đảm bảo an toàn kinh tế vĩ mô và giúp tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu.

Đặc biệt, theo PGS.TS. Lê Xuân Bá, Chính phủ cần đẩy mạnh hơn nữa việc hoàn thiện thể chế và phát triển nguồn nhân lực để tạo ra sự cộng hưởng sức mạnh. Trong đó, giải pháp quan trọng là xây dựng một Nhà nước kiến tạo, liêm chính (công tâm, khách quan, có trách nhiệm giải trình) và thiết lập thể chế cho phát triển. Việc cải cách phải tạo hành lang pháp lý thông thoáng, thúc đẩy mạnh mẽ các mô hình kinh tế mới, đặc biệt là khu vực kinh tế tư nhân, nhằm phát huy tối đa vai trò là động lực tăng trưởng.

Theo TS. Cấn Văn Lực, Chuyên gia kinh tế trưởng BIDV, Thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia, để đạt mức tăng trưởng 10% giai đoạn tới, bên cạnh việc cải thiện TFP, Việt Nam cần tiếp tục tăng đầu tư vốn. Yếu tố vốn tiếp tục đóng góp khoảng 45 - 47% cho tăng trưởng kinh tế; yếu tố lao động khoảng 5 - 6%, thấp hơn so với mức 8% hiện nay; trong khi TFP sẽ tăng lên trên 50%, so với mức khoảng 47% hiện nay.

Theo tính toán của BIDV, trong giai đoạn 2021 - 2025, đầu tư công chiếm 17,2% tổng vốn đầu tư toàn xã hội và cứ một đồng vốn đầu tư công tăng thêm sẽ kéo theo 1,61 đồng vốn đầu tư tư nhân. Tuy nhiên, cơ cấu đầu tư công vẫn chưa thực sự hợp lý, hiệu quả sử dụng vốn đang là vấn đề đáng báo động, tạo ra áp lực lớn cho mục tiêu tăng trưởng cao và chất lượng. Bởi có khoảng 80% tổng vốn đầu tư đang đổ vào cơ sở hạ tầng, trong khi chỉ còn 20% dành cho các lĩnh vực tạo ra đột phá TFP như: khoa học, công nghệ (0,45%), giáo dục (10,3%) và y tế (4,2%),... Đây là một sự phân bổ không cân xứng, kìm hãm khả năng tăng trưởng theo chiều sâu. Bên cạnh đó, tình trạng giải ngân vốn đầu tư công chậm tiến độ vẫn kéo dài, có tới gần 3.000 dự án tồn đọng vướng mắc chưa thể triển khai, gây lãng phí nguồn lực và thời gian.

Theo TS. Cấn Văn Lực, giải pháp cốt lõi là thay đổi cơ cấu chi tiêu công theo hướng phục vụ mục tiêu tăng trưởng chiều sâu, điều chỉnh cơ cấu vốn đầu tư công theo hướng giảm tỷ trọng đầu tư cho hạ tầng giao thông, năng lượng từ mức 80% hiện nay xuống còn khoảng 50-55% tổng vốn đầu tư công; tăng mạnh chi cho các lĩnh vực tạo TFP như chi cho giáo dục và đào tạo khoảng 20% tổng vốn (tiệm cận với mức quốc tế), tăng đầu tư cho y tế lên mức 10 - 12% và cho khoa học, công nghệ lên 3-5%,...

Đồng thời, cần hoàn thiện Bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả dự án đầu tư công một cách khoa học, cập nhật (với sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế như IMF và WB); kiểm soát số lượng dự án hợp lý và rà soát, điều chỉnh kế hoạch vốn từ những dự án chậm giải ngân sang các dự án giải ngân tốt. Đặc biệt, cần phát triển đồng bộ và cân bằng hơn thị trường tài chính, tăng cường hợp tác quốc tế và đa dạng hóa kênh huy động vốn, hướng tới xây dựng Đề án cải cách toàn diện khu vực tài chính.

Anh Mai (Vietnam Business Forum)