Tăng trưởng xuất khẩu cần tạo giá trị gia tăng

10:13:57 | 10/7/2013

Báo cáo mới mang tên “Tạo thuận lợi thương mại, tạo giá trị, và năng lực cạnh tranh: Gợi ý chính sách cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam” do Ủy ban Quốc gia về Hợp tác Kinh tế Quốc tế và Ngân hàng Thế giới thực hiện khẳng định, thương mại đang đóng góp to lớn vào tăng trưởng kinh tế, do đó tăng trưởng xuất khẩu trong tương lai của Việt Nam cần dựa trên tăng cường khả năng cạnh tranh và tạo giá trị gia tăng cao hơn.

Theo báo cáo, Việt Nam đã đạt được hiệu quả cao trong hoạt động thương mại trong bối cảnh môi trường bên ngoài có nhiều khó khăn – xuất khẩu tăng trưởng 34% trong năm 2011, 18% năm 2012 và 20% trong quý đầu của năm 2013. Tuy nhiên, Việt Nam chưa đạt được thành công như vậy trong việc đa dạng hóa các sản phẩm xuất khẩu và chuyển dịch lên trên chuổi giá trị toàn cầu. Khả năng Việt Nam có thể thoát khỏi “bẫy thu nhập trung bình” cũng phụ thuộc vào khả năng xây dựng nền kinh tế cạnh tranh và hiệu quả hơn.

“Lợi thế của tự do thương mại trong việc đóng góp vào tăng trưởng thương mại đang đạt đến những giới hạn nhất định. Đây là thời điểm cần có một cách tiếp cận mới nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh, thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu Việt Nam,” Phó Thủ Tướng Chính phủ Vũ Văn Ninh chia sẻ trong lời nói đầu của báo cáo.

Theo Bà Victoria Kwakwa, Giám đốc quốc gia Ngân hàng thế giới tại VN, trong Chiến lược Phát triển Kinh tế Xã hội 2011-2020, nền kinh tế Việt Nam đang đứng trước ngã ba đường hết sức quan trọng. Các động lực truyền thống trong phát triển kinh tế - các yếu tố thuận lợi sẵn có và khu vực nhà nước – hiện đã không còn là tối ưu nữa. Trong một thế giới ngày càng toàn cầu hóa, năng lực cạnh tranh, đặc biệt trong xuất khẩu, chính là yếu tố quyết định lớn với tăng trưởng dài hạn của Việt Nam.

“Việt Nam đã thực hiện 1 số biện pháp tự do hóa thương mại và ký kết 1 số hiệp định thương mại trong 2 thập kỷ qua. Để phát huy tối đa các chính sách này, bên cạnh những biện pháp khác, Việt Nam cần nâng cao năng lực cạnh tranh bằng cách tiến hành thêm các hoạt động cải cách để cải thiện cơ sở hạ tầng và dịch vụ hậu cần trong nước và liên quan đến xuất khẩu”, bà Victoria Kwakwa khẳng định.

Theo bà Victoria Kwakwa, báo cáo này phân tích 3 trụ cột có tác động qua lại lẫn nhau của năng lực cạnh tranh quốc gia. Các trụ cột này gồm:cơ sở hạ tầng vận tải và dịch vụ hậu cần; thủ tục pháp lý về xuất nhập khẩu; và tổ chức chuỗi giá trị sản xuất. Các trụ cột này có sự hỗ trợ từ các chính sách chính phủ và các thể chế cần hỗ trợ nâng cao năng lực cạnh tranh.

Phần đầu báo cáo là một cuộc khảo sát cho thấy cả tình hình phát triển ấn tượng cũng như các thách thức lớn với xuất khẩu của Việt Nam. Theo báo cáo, các động lực thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu hiện tại gần như đã cạn kiệt và Việt Nam cần chủ động nỗ lực tìm ra hướng đi mới để nâng cao năng lực cạnh tranh trong xuất khẩu.

Trong phần phân tích về trụ cột 1 – cơ sở hạ tầng vận tải và dịch vụ hậu cần – báo cáo cho thấy CSHT liên quan tới thương mại của Việt Nam đang không đáp ứng được tốc độ tăng trưởng xuất khẩu. Tuy nhiên, lượng đầu tư cần thiết để khắc phục tình trạng trên lại nằm ngoài khả năng huy động của một mình nguồn đầu tư công. Bên cạnh nâng cao hiệu quả cơ chế đầu tư công thông qua đầu tư tập trung, tránh dàn trải, Việt Nam cũng cần chuyển sang chú trọng hơn tới nguồn tài chính từ khu vực tư nhân.

Thủ tục pháp quy của Việt Nam trong trụ cột 2 cũng cần được cải thiện. Dù đã chú ý nhiều tới cải cách hải quan và mang lại nhiều kết quả trong quản lý thương mại qua biên giới, nhiều cơ quan vẫn áp dụng quy trình thủ tục lạc hậu tốn thời gian, không rõ ràng, và dễ gây ra tham nhũng. Báo cáo đã nêu chi tiết các lĩnh vực cần tập trung để đơn giản hóa quy trình và nâng cao thể chế - những công việc hết sức quan trọng trong cải cách.

Liên quan đến trụ cột 3, sự yếu kém trong chuỗi giá trị sản xuất sản phẩm công nghiệp chế biến và nông nghiệp của Việt Nam đã khiến Việt Nam khó giảm chi phí xuất khẩu và tạo được thêm giá trị gia tăng cần thiết. Báo cáo đề xuất chiến lược tái cơ cấu các chuỗi giá trị sản xuất, nhắm tới 2 mục tiêu – tăng cường tham gia những hoạt động tạo giá trị gia tăng tại Việt Nam, và cụ thể là khuyến khích doanh nghiệp trong nước tham gia vào quá trình này. Ngoài ra, việc tạo điều kiện cho tăng trưởng các công nghiệp phụ trợ, dù là một nỗ lực dài hạn, cũng có ý nghĩa quan trọng.

Vấn đề thể chế chính là chìa khóa để tạo thuận lợi cho thương mại nói chung và các công cuộc trên nói riêng. Tuy nhiên, môi trường thể chế của Việt Nam đang đối mặt với thách thức ở nhiều cấp độ. Ở cấp vĩ mô, hiện đang có quá nhiều kế hoạch chiến lược có các hoạt động chồng chéo nhưng lại không tập trung vào tạo thuận lợi cho thương mại, đồng thời nhiều thỏa thuận quốc tế đã được ký kết song lại chưa được thực hiện. Ở cấp độ trung và cấp độ doanh nghiệp, nhiều cơ quan thuộc các cấp chính quyền khác nhau cùng thực hiện các hoạt động hỗ trợ thương mại nhưng lại thiếu sự điều phối, phối hợp nhịp nhàng.

Do đó, theo bà Victoria Kwakwa, Chính phủ sẽ đóng 1 vai trò quan trọng. Cụ thể là Chính phủ phải hỗ trợ các hoạt động mang lại ảnh hưởng tích cực từ bên ngoài, và có những trợ giúp để thúc đẩy luồng thương mại. Đồng thời, Chính phủ phải loại bỏ những yếu tố cản trở, trong đó có việc rút lui dần khỏi những lĩnh vực mà khu vực tư nhân có thể đóng vai trò đi đầu. Việt Nam có thể làm thêm nhiều điều ở từng công việc nói trên. Trong số rất nhiều sáng kiến, việc đầu tư cho tái cơ cấu chuỗi giá trị sản xuất mang lại lợi ích không chỉ là về mặt tạo thuận lợi cho thương mại.

Báo cáo đề xuất một số khuyến nghị chính sách để phát triển cách tiếp cận này, bao gồm: Thành lập Ủy ban quốc gia về tạo thuận lợi thương mại (NCTF) để phát triển và triển khai thực hiện kế hoạch hành động quốc gia cho tăng cường khả năng cạnh tranh thương mại; Phát triển hạ tầng và dịch vụ giao thông, Đơn giản hóa thủ tục pháp quy để giảm thời gian và chi phí và tăng cường độ tin cậy của thương mại biên giới, Tái cơ cấu chuỗi cung ứng công nghiệp chế biến để tạo ra giá trị và chủ động tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu; Tái cơ cấu chuỗi giá trị sản xuất nông nghiệp.

Để thực hiện thành công những đề xuất này, theo báo cáo, tất cả các bên liên quan đều cần hết sức cố gắng và bền bỉ, đồng thời chính phủ đóng vai trò hỗ trợ và điều phối. Việt Nam cũng cần có được cam kết chính trị từ cấp lãnh đạo do trong các hoạt động cải cách được đề xuất có những xung đột lợi ích. Nếu không hành động ngay, năng lực cạnh tranh của Việt Nam trong tương lai sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng vì các nước khác vẫn đang tiếp tục chương trình tạo thuận lợi thương mại của mình.

Quỳnh Chi