Việt Nam có thể nâng quy mô gói hỗ trợ lên 5-7% GDP

13:34:44 | 6/12/2021

Theo Nguyễn Minh Cường - Kinh tế trưởng ADB tại Việt Nam, quy mô gói ngân sách hỗ trợ cho nền kinh tế của Việt Nam hiện chưa đến 3% GDP nên có thể nâng lên khoảng 5% - 7% GDP.


Ông Nguyễn Minh Cường - Kinh tế trưởng của Ngân hàng Phát triển Châu Á tại Việt Nam phát biểu tại diễn đàn - Ảnh: Quochoi.vn.

Ông Nguyễn Minh Cường, Kinh tế trưởng Ngân hàng phát triển châu Á tại Việt Nam (ADB) cho biết, để đối phó với đại dịch Covid-19, chính phủ các nước đã sử dụng chính sách tài khóa nghịch chu kỳ nhằm chống lại suy thoái kinh tế, an sinh xã hội và tạo việc làm cho người dân. Theo đó, các khoản chi dành cho lĩnh vực y tế, sức khỏe và hỗ trợ thu nhập chiếm tỷ trọng lớn trong tổng giá trị của gói kích thích tài khóa. 

Đáng lưu ý, năm 2021 chứng kiến sự khác biệt về nhịp độ tài khóa giữa các quốc gia trong khu vực châu Á.  Tính chung cả khu vực châu Á-Thái Bình Dương, hỗ trợ của Chính phủ giảm từ mức trung bình 7,7% GDP vào năm 2020 xuống còn khoảng 4,9% vào năm 2021.

Cụ thể, tại một số nước ASEAN+3, việc triển khai mạnh chiến lược vắc xin và sự phục hồi tốt của nền kinh tế đã cho các nhà hoạch định chính sách dư địa để bắt đầu giảm bớt các biện pháp hỗ trợ. 

Trong khi đó, các nền kinh tế ASEAN đang có mức tăng trưởng yếu hơn dự kiến do diễn biến phức tạp của đại dịch Covid-19 đã phải duy trì lập trường mở rộng tài khóa như Philippines, Thái Lan...

Ông Nguyễn Minh Cường cũng cho biết, sự phục hồi kinh tế ở châu Á là không đồng đều. Khu vực Đông Á tiếp tục là điểm sáng, dự báo gần đạt được mức tăng trưởng trước đại dịch vào năm sau. Trong khi đó, khu vực Nam Á suy giảm mạnh năm 2020, dự báo sẽ phục hồi vào năm 2021. Khu vực Đông Nam Á ít suy giảm nhưng lại chịu tác động mạnh nhất bởi làn sóng bùng phát dịch trong năm 2021, dự báo tốc độ phục hồi chậm so với Đông Á, Trung Á và Nam Á.

"Năm 2020, Việt Nam duy trì được tốc độ tăng trưởng dương cao nhất trong khu vực Đông Nam Á, nhưng làn sóng bùng phát dịch lần thứ 4 đã tác động mạnh tới tăng trưởng và dự báo kinh tế Việt Nam sẽ giảm sâu vào năm 2021. Tuy nhiên, triển vọng kinh tế trung hạn và dài hạn vẫn tích cực", ông Nguyễn Minh Cường nhận định.

Về thách thức và rủi ro, Kinh tế trưởng của ADB tại Việt Nam cho biết, tốc độ tiêm chủng nhanh ở châu Á, đặc biệt là Việt Nam, đã hạn chế được lây lan của dịch bệnh. Tuy nhiên, COVID-19 vẫn là mối đe doạ với phục hồi kinh tế, đặc biệt là với chủng mới Omicron. Kinh tế khu vực phục hồi nhưng không đồng đều. Các nền kinh tế khống chế thành công dịch bệnh và có độ phủ vaccine cao sẽ tận dụng được các cơ hội của phục hồi kinh tế toàn cầu. Bên cạnh đó, biến động giá nhiên liệu, nguyên vật liệu thế giới và khả năng "siết" lại các chính sách tài khóa, tiền tệ của các nền kinh tế phát triển sẽ là những rủi ro cho phục hồi kinh tế của châu Á.

Từ kinh nghiệm của các nước châu Á trong việc thực hiện các biện pháp tài khóa ứng phó với đại dịch Covid-19, theo ông Cường, Việt Nam có thể rút ra một số bài học và hàm ý chính sách sau:

Thứ nhất, do khủng hoảng kinh tế - xã hội lần này xuất phát từ dịch bệnh Covid-19 mà không phải xuất phát từ khủng hoảng kinh tế - tài chính nên về phương diện lý luận cũng như thực tiễn thì để xử lý triệt để thì các giải pháp chuyên môn về y tế vẫn mang tính chất quyết định và chủ yếu, còn chính sách kinh tế vĩ mô là các công cụ mang tính hỗ trợ. 

Trong đó, chính sách tài khóa đóng vai trò chủ đạo song vẫn cần có sự kết hợp hài hòa với chính sách tiền tệ, để tạo ra các nguồn lực tốt nhất hỗ trợ nền kinh tế vượt qua giai đoạn khó khăn, sớm hồi phục và phát triển.

Thứ hai, trong bối cảnh dịch bệnh vẫn còn tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường; dư địa tài khóa được củng cố trong các năm gần đây, an toàn nợ công vẫn được đảm bảo, trong ngắn hạn Việt Nam có thể chấp nhận mức bội cao hơn và nợ công tăng trong giai đoạn 2021-2023 để hỗ trợ nền kinh tế. 

Quy mô của chính sách tài khóa của một số quốc gia châu Á (Đơn vị: %GDP) Nguồn: IMF/ADB

Tuy nhiên về dài hạn, khi nền kinh tế đã dần phục hồi, vai trò hỗ trợ của chính sách tài khóa cũng giảm dần, cần có các biện pháp mở rộng cơ sở thu, tăng cường quản lý thu và cải thiện hiệu quả chi ngân sách Nhà nước để thiết lập lại kỷ luật tài khóa trong vòng 3-5 năm sau, đảm bảo các chỉ tiêu an toàn tài chính quốc gia trong giai đoạn 2021-2025.

Thứ ba, các gói hỗ trợ tài khóa là hết sức cần thiết trong giai đoạn nền kinh tế bị ảnh hưởng bởi đại dịch và cũng không kém phần quan trọng khi nền kinh tế bước sang giai đoạn chuyển tiếp hướng tới phục hồi. 

"Điều quan trọng là cần xác định các mục tiêu phù hợp với từng thời kỳ để xây dựng gói hỗ trợ với quy mô đủ lớn, gói ngân sách hỗ trợ cho nền kinh tế của Việt Nam hiện mới chưa đến 3% GDP nên có thể nâng lên khoảng 5% - 7% GDP", đại diện Ngân hàng ADB nhận định.

Đồng thời, gói hỗ trợ cần phải đáp ứng các tiêu chí kịp thời, đúng đối tượng, đủ dài, đủ bao trùm để mang lại hiệu quả như mong đợi.

Thứ tư, đầu tư công tiếp tục là trụ đỡ của phát triển kinh tế trong giai đoạn tiếp theo. Theo đó, đầu tư vào cơ sở hạ tầng bền vững sẽ hỗ trợ quá trình tái cơ cấu nền kinh tế  giai đoạn hậu Covid-19. 

Vì vậy, cần tiếp tục coi giải ngân vốn đầu tư công như một nhiệm vụ trọng tâm của năm 2022-2023 để thực hiện mục tiêu phát triển bền vững (giao thông, năng lượng, viễn thông, nước…); đầu tư vào cơ sở hạ tầng hỗ trợ cho xuất khẩu; hạ tầng số; hạ tầng xanh thích ứng với biến đổi khí hậu. 

Thứ năm, trong việc triển khai các thực hiện các giải pháp về y tế cũng như kinh tế, cần có sự phối hợp, hợp tác và hỗ trợ quốc tế, giữa các nước, các khu vực với nhau cũng như các tổ chức quốc tế, đặc biệt là khi chuyển sang giai đoạn bình thường mới. Việc phân hóa về quy mô của các gói hỗ trợ càng cho thấy nhu cầu về nâng cao hợp tác và đoàn kết trong khu vực để thúc đẩy sự phục hồi mạnh mẽ trên toàn bộ châu Á.

Nguồn: DDDN