Thúc đẩy số hóa ngành logistics

10:07:50 | 1/6/2024

Là một trong những ngành then chốt, được ví như “mạch máu” của nền kinh tế, logistics cần được đầu tư mạnh mẽ, đặc biệt trong khía cạnh “số hóa” để có thể đáp ứng, thích nghi với bối cảnh thị trường, hỗ trợ tối đa thúc đẩy sự phát triển của các ngành nghề khác. Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 cũng đã xác định logistics là 1 trong 8 lĩnh vực cần ưu tiên chuyển đổi số.

Còn nhiều khó khăn vướng mắc

Tại Diễn đàn Logistics Vùng Lần thứ V - năm 2024 với chủ đề “Chuyển đổi số - động lực mới thúc đẩy tăng trưởng Vùng Đồng bằng sông Hồng- Hải Phòng 2024” được tổ chức vừa qua, Chủ tịch VCCI Phạm Tấn Công đánh giá, mặc dù lợi ích mang lại từ chuyển đổi số là rất rõ ràng, tuy nhiên, quá trình chuyển đổi số trong lĩnh vực logistics ở Việt Nam vẫn còn nhiều khó khăn cả ở cấp độ vĩ mô và vi mô, cả ở các cơ quan quản lý Nhà nước, địa phương và doanh nghiệp.

Khảo sát tại Báo cáo Logistics năm 2023 của Bộ Công Thương cho thấy, có 90,5% các doanh nghiệp dịch vụ logistics tham gia khảo sát đang còn ở giai đoạn số hóa, bao gồm cấp độ 1 là tin học hóa và cấp độ 2 là kết nối. Trong đó, phần lớn các doanh nghiệp đang ở cấp độ 2 với tỷ lệ chiếm tới 73,5%.

Chỉ có 5% doanh nghiệp dịch vụ logistics đã tiến lên cấp độ 3 là trực quan hóa, 2,2% ở cấp độ 4 là minh bạch hóa. Đặc biệt, chỉ có 1,9% doanh nghiệp dịch vụ logistics đã tiến lên cấp độ 5 là có khả năng dự báo và con số rất “khiêm tốn” 0,4% doanh nghiệp đạt đến cấp độ cao nhất, cấp độ 6 là có khả năng thích ứng.

Ông Nguyễn Đức Hiển, Phó Trưởng ban Kinh tế Trung ương cho biết, ngành logistics vẫn còn những hạn chế như: Vận tải hàng hoá trong nước chủ yếu là đường bộ, chi phí logistics còn ở mức cao, năng lực và chất lượng dịch vụ, tính chuyên nghiệp còn hạn chế. Việc đẩy mạnh liên kết giữa các doanh nghiệp logistics, hoặc giữa doanh nghiệp logistics và doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu còn yếu; chưa hình hình thành được mạng lưới các doanh nghiệp logistics Việt Nam có quy mô lớn, có năng lực dẫn dắt, tiên phong để tiến ra thị trường quốc tế. 

Bên cạnh đó, quá trình chuyển đổi số trong ngành có nhiều kết quả tích cực nhưng nhìn chung còn chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển; trình độ nguồn nhân lực và nguồn vốn đầu tư còn nhiều hạn chế; cơ sở hạ tầng thương mại, hạ tầng giao thông vẫn chưa được đầu tư tương xứng, đồng bộ với nhu cầu phát triển thực tiễn; cơ chế phối hợp liên ngành trong lĩnh vực logistics có lúc, có nơi còn chưa phát được huy hiệu lực, hiệu quả. 

Hiện nay, thị trường logistics Việt Nam có sự tham gia của khoảng 43.000 doanh nghiệp trong nước, đa phần là các doanh nghiệp vừa và nhỏ và khoảng 30 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics xuyên quốc gia, với các tên tuổi lớn như: DHL, FedEx, Maersk Logistics, APL Logistics, CJ logistics, KMTC Logistics… Điều này cho thấy, sự cạnh tranh khốc liệt trên thị trường dịch vụ logistics vốn rất nhiều tiềm năng.

“Thực tế đó đặt ra yêu cầu cần đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số trong lĩnh vực logistics để vừa khắc phục được những vấn đề nảy sinh trong đợt dịch bệnh vừa qua, vừa có thể tận dụng được lợi thế hiện nay của cách mạng số và thành tựu Cách mạng công nghiệp 4.0. Thông qua hoạt động chuyển đổi số, các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics sẽ thay đổi tư duy, tạo sự đột phá để nâng cao năng lực cạnh tranh, giảm chi phí logistics, tăng trưởng, có thêm khách hàng và đạt lợi nhuận tối đa vượt trội so với trước khi chuyển đổi số”, Chủ tịch Phạm Tấn Công nói.

Khai phá tiềm năng logistics của Vùng đồng bằng sông Hồng

Theo ông Nguyễn Đức Hiển, vùng Đồng bằng sông Hồng là thị trường đầy tiềm năng và hấp dẫn cho ngành logistics phát triển. Đây được coi là cửa ngõ phía bắc của VN và ASEAN về kết nối phát triển kinh tế, thương mại với Trung Quốc - thị trường rộng lớn nhất thế giới và ngược lại; là cầu nối quan trọng trong giao lưu kinh tế, văn hóa quốc tế. 

So với các vùng kinh tế khác trong cả nước, vùng Đồng bằng sông Hồng có hệ thống hạ tầng giao thông kết nối đồng bộ và tốt nhất cả nước với đầy đủ 5 phương thức vận tải (cả đường bộ, đường biển, đường sông, đường hàng không, đường sắt) với ba tuyến hành lang kinh tế đi qua. Do đó, ông Hiển nhấn mạnh, ngành logistics của vùng Đồng bằng sông Hồng còn có nhiều tiềm năng và cơ hội phát triển hơn nữa trong thời gian tới.

Tuy nhiên, theo ông Hiển, phát triển ngành logistics tại Vùng đồng bằng sông Hồng đã và đang đối mặt với nhiều thách thức, khó khăn như: Quỹ đất để xây dựng hệ thống kho hàng, kho bãi, trung tâm trung chuyển hàng hoá, trung tâm logistics không nhiều, vốn đầu tư của các doanh nghiệp không lớn. Huy động vốn đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng logistics còn hạn chế, thiếu đồng bộ. 

Bên cạnh đó, hệ thống kho hàng, bến bãi trên địa bàn một số địa phương vẫn còn manh mún, nhỏ lẻ, thiếu liên kết và gần như chưa có chuyển biến rõ rệt nhằm hỗ trợ lưu thông hàng hóa. Các cảng cạn khu vực phía Bắc chưa kết nối với cảng biển rõ rệt như đối với cảng cạn khu vực phía Nam; quy mô khai thác nhỏ, chưa có các trang thiết bị xếp dỡ hàng chuyên dụng. Việc liên kết, hợp tác giữa các địa phương trong vùng còn chưa chặt chẽ, hiệu quả thấp…

"Bối cảnh và thực trạng trên đặt ra yêu cầu đối với ngành logistics Việt Nam nói chung và của Vùng Đồng bằng sông Hồng nói riêng vừa phải có các giải pháp duy trì, đảm bảo vai trò của logistics trong việc duy trì các chuỗi cung ứng hàng hóa, dịch vụ; vừa phải có tư duy, tầm nhìn, giải pháp đặc biệt, định hình các hướng đi mới để bắt kịp với thế giới, tạo ra những bước đột phá phát triển", ông Hiển nhấn mạnh.

Thể chế hóa kịp thời để phát triển ngành logistic

Để phát triển ngành logistic nói chung và thúc đẩy chuyển đổi số ngành logistic nói riêng, theo ông Hiển, rất cần có sự vào cuộc đồng bộ, kịp thời, hiệu quả của các cấp, các ngành và cộng đồng doanh nghiệp. Trong đó, cần tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng công tác thể chế, nhất là việc thể chế hóa kịp thời các quan điểm, đường lối của Đảng trong phát triển logistics và quá trình chuyển đổi số của ngành.

Bên cạnh đó, cần chú trọng xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng logistics đồng bộ, hiện đại; phát huy vai trò của logistics thúc đẩy liên kết vùng, liên kết giữa các địa phương nội vùng mạnh mẽ. Tháo gỡ các cơ chế chính sách trong hoạt động đầu tư hạ tầng thúc đẩy liên kết vùng như nghiên cứu hình thành các quỹ đầu tư phát triển hạ tầng như đã có định hướng trong Nghị quyết 29 để khai thác quỹ đất để thúc đẩy liên kết vùng; thúc đẩy đô thị hóa theo mô hình TOD... để quá trình xây dựng hạ tầng cho logistics đi vào thực tiễn,

Ngoài ra, theo ông Hiển, cần phát triển logistics thông minh dựa trên nền tảng của tiến bộ khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành logistics, tận dụng và khai thác tối đa hiệu quả của quá trình chuyển đổi số để phát triển ngành logistics. Phát triển hệ thống phân phối hàng hóa đủ sức tham gia vào mạng lưới phân phối toàn cầu; phát triển thương mại điện tử, các loại hình thương mại dựa trên nền tảng số hóa. Phát triển các kênh, luồng lưu thông hàng hóa giữa thành thị và nông thôn; hình thành các trục thương mại lớn của vùng, phát triển hệ thống logistics, chợ đầu mối hiện đại, thông minh, bền vững; đẩy mạnh thương mại điện tử; hình thành các sàn giao dịch hàng hoá và các cụm, khu vực hội chợ triển lãm. 

Đồng thời, chú trọng huy động các nguồn lực cho phát triển logistics theo hướng xã hội hóa, tăng cường hợp tác công - tư trong xây dựng và phát triển các trung tâm logistic trong và ngoài nước, đặc biệt đối với các thị trường đối tác chiến lược…

Chia sẻ dữ liệu là cách phát huy tốt nhất lợi ích của chuyển đổi số

Ông Trần Thanh Hải - Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) 

Chuyển đổi số là nội dung được đề cập nhiều trong thời gian qua với các vấn đề liên quan đến công nghệ, sự chuẩn bị về tài chính, nhân lực, hạ tầng, bao gồm liên kết hạ tầng giữa các cơ quan nhà nước với nhau, giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương với địa phương, giữa các cơ quan nhà nước với doanh nghiệp.

Thời gian qua, hoạt động Chính phủ điện tử và dịch vụ công trực tuyến tạo sự kết nối giữa cơ quan nhà nước và doanh nghiệp, nhất là trong hoạt động xuất nhập khẩu. Tuy nhiên, sự thúc đẩy để lan rộng phạm vi các hoạt động đó đang chững lại.

Chia sẻ dữ liệu chính là cách phát huy tốt nhất lợi ích của chuyển đổi số nhưng thời gian qua, đây là điểm nghẽn, ngay giữa các cơ quan Nhà nước với nhau hay giữa các cơ quan với các doanh nghiệp để có thể sử dụng dữ liệu… Bên cạnh đó, cần phát triển các giải pháp, ứng dụng như ứng dụng cảng thông minh; đào tạo nhân lực…

Đồng thời, cần tạo động lực cho sự phát triển logistic như xây dựng Kế hoạch phát triển logistics của địa phương phù hợp với chiến lược quốc gia; chăm sóc hỗ trợ đội ngũ doanh nghiệp để hình thành các doanh nghiệp lớn có vai trò dẫn dắt; thúc đẩy liên kết giữa các địa phương trong Vùng; xây dựng khu/trung tâm logistics lớn, hiện đại, thông minh và tự động…

Hải Phòng hội tụ đủ yếu tố cần thiết để trở thành đầu mối logistics

Ông Nguyễn Đức Thọ - Phó Chủ tịch UBND TP Hải Phòng

Xác định logistics là một ngành dịch vụ quan trọng trong cơ cấu tổng thể nền kinh tế, đóng góp vai trò hỗ trợ, kết nối và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của thành phố, thành phố Hải Phòng đã triển khai nhiều chương trình, dự án nhằm thúc đẩy phát triển logistics và đã đạt được những kết quả quan trọng, toàn diện trên nhiều lĩnh vực.

Trong đó, Khu kinh tế Đình Vũ - Cát Hải với diện tích 22.540 ha và 14 khu công nghiệp đang triển khai hoạt động đầu tư, xây dựng, kinh doanh cơ sở hạ tầng với tổng diện tích hơn 6.000 ha, gồm 9 khu công nghiệp nằm trong Khu kinh tế Đình Vũ - Cát Hải và 5 khu công nghiệp nằm ngoài khu kinh tế, tạo nên tiềm năng, lợi thế kết nối logistics từ hệ thống cảng biển, cảng hàng không và hệ thống giao thông vô cùng thuận lợi, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư trong hoạt động sản xuất kinh doanh và xuất nhập khẩu.

TP cũng phát triển 5 khu bến với 98 cầu bến các loại, trong đó có 52 bến cảng thuộc hệ thống các Cảng biển Việt Nam với tổng chiều dài là hơn 14 km cùng 08 đoạn luồng hàng hải chính, trong đó, nổi bật là khu bến cảng Lạch Huyện với chức năng cửa ngõ kết hợp trung chuyển quốc tế, đã được hoàn thành và đưa vào khai thác 2 bến khởi động từ tháng 5/2018, có thể tiếp nhận tàu lên tới 200.000 tấn.

Hệ thống kho, bãi phục vụ cho dịch vụ logistics đạt hơn 700 ha với khoảng hơn 60 kho bãi chính bao gồm hệ thống kho bãi tại các cảng biển; kho ngoại quan; hệ thống kho bãi tại các điểm thu gom hàng lẻ, địa điểm kiểm tra tập trung và hệ thống kho chứa hàng hóa thông thường và kho lạnh khác.

Theo quy hoạch, mạng lưới logistics thành phố Hải Phòng đến năm 2030 đạt khoảng 1.700 - 2.000 ha và đến năm 2040 khoảng 2.200 2.500 ha, gồm trung tâm logistics quốc tế và cấp vùng ở khu vực Đình Vũ - Cát Hải; các trung tâm logistics cấp thành phố, trung tâm logistics chuyên dụng, trung tâm logistics hỗ trợ gắn với các đầu mối giao thương chính.

Với những lợi thế, tiềm năng vị trí địa lý, cùng quyết tâm mạnh mẽ của thành phố và nỗ lực vượt bậc của cộng đồng doanh nghiệp, người dân, thành phố Hải Phòng hội tụ đủ yếu tố cần thiết để trở thành một trong những đầu mối logistics quan trọng, trung tâm phân phối, trung chuyển hàng hóa đa phương thức kết nối Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ với cả nước, khu vực và quốc tế.

Trí tuệ nhân tạo (AI) và công nghệ xe không người lái đóng vai trò quan trọng trong cách vận hành logistics trong tương lai

Ông Thomas Sim - Phó Chủ tịch cấp cao Liên đoàn Giao nhận Vận tải Quốc tế (FIATA)

Trí tuệ nhân tạo (AI) và công nghệ xe không người lái sẽ đóng vai trò quan trọng trong cách vận hành logistics trong tương lai. Một số nhà cung cấp dịch vụ hậu cần đã sử dụng AI để theo dõi các đơn hàng tốt hơn và dự đoán các vấn đề liên quan đến vận tải trong chuỗi cung ứng. Các phương tiện tự lái, chẳng hạn như xe nâng không người lái, xe tải giao hàng và máy bay không người lái, có thể sẽ được sử dụng phổ biến hơn trong các nhà kho, đường cao tốc...

Hiện nay, nhu cầu về sử dụng công nghệ AI trong hoạt động logistics hiện đại đang ngày một gia tăng trên toàn cầu. Ngày càng nhiều các doanh nghiệp logistics đang tận dụng các công cụ và hệ thống hỗ trợ AI để tối ưu hóa các khía cạnh khác nhau trong hoạt động của doanh nghiệp một cách hiệu quả, đáp ứng tốt hơn nhu cầu luôn thay đổi của khách hàng.

Chuyển đổi kỹ thuật số trong lĩnh vực logistics là điều mấu chốt nhằm tăng trưởng kinh tế và hội nhập thương mại toàn cầu. Ở Việt Nam, các vùng kinh tế trọng điểm của Việt Nam, trong đó Đồng bằng sông Hồng, Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long có thể trở thành trung tâm logistics hàng đầu trong khu vực thông qua đầu tư chiến lược vào chuyển đổi kỹ thuật số và cơ sở hạ tầng cảng thông minh. Các bên liên quan, bao gồm chính phủ, khu vực tư nhân và các tổ chức phải hợp tác để thúc đẩy chuyển đổi số, đảm bảo tăng trưởng bền vững và toàn diện cho ngành logistics của Việt Nam.

Cần chiến lược chuyển đổi số qốc gia cho ngành logistics

Ông Đào Trọng Khoa – Phó Chủ tịch Thường trực Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ Logistics Việt Nam (VLA)

Để thúc đẩy chuyển đổi số ngành logistics thì Chính phủ cần đóng vai trò “bệ đỡ” rất quan trọng, do đó, VLA đề xuất: cần phải có Chiến lược chuyển đổi số quốc gia cho ngành Logistics. Chiến lược này cần gắn liền với chiến lược chuyển đổi số ngành logistics mà Bộ Công Thương đang xây dựng. Ban hành những chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp như thuế, tài chính, đào tạo để khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào ứng dụng chuyển đổi số. Đặc biệt, cần hoàn thiện khung pháp lý, giải tỏa những e ngại cho doanh nghiệp trong ứng dụng chuyển đổi số. Tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý về logistics để điều chỉnh các phương thức vận tải. Phát triển hạ tầng số, hạ tầng viễn thông bởi đây là nền tảng cho việc thúc đẩy phát triển chuyển đổi số…, nâng cao nhận thức về chuyển đổi số. Thúc đẩy sự hợp tác giữa các doanh nghiệp logistics và các doanh nghiệp công nghệ, các cơ quan quản lý liên ngành.

Bên cạnh đó, hỗ trợ nguồn vốn cho các doanh nghiệp chuyển đổi số, bởi hiện nay không nhiều doanh nghiệp có đủ lực và chi phí để thực hiện công tác chuyển đổi số.

Cần phán rõ từng nền tảng, mối liên hệ dữ liệu

Ông Nguyễn Hữu Hạnh - Phó Cục trưởng Cục Chuyển đổi số quốc gia

Chuyển đổi số trong ngành logistics chưa đạt được như kỳ vọng và cần xây dựng Chiến lược chuyển đổi số cho ngành logistics, trong đó làm rõ nội dung công việc và chủ thể thực hiện. Chuyển đổi số đem lại lợi ích cho cơ quan quản lý nhà nước (có số liệu để thực hiện công tác dự báo và tạo ra các giá trị mới); giảm chi phí cho doanh nghiệp và tạo trải nghiệm mới cho người sử dụng. Ngoài ra, đưa ra định hướng trong thời gian tới để các doanh nghiệp viễn thông đầu tư hạ tầng.

Chiến lược chuyển đổi số cho ngành logistics khi được xây dựng cần phân rõ từng nền tảng, mối liên hệ dữ liệu giữa các nền tảng, dữ liệu đầu ra và đầu vào được xác định cụ thể. Song song với việc xây dựng Chiến lược chuyển đổi số, do ngành logistics liên quan đến nhiều ngành và lĩnh vực khác nhau nên cần xây dựng kiến trúc dữ liệu trong ngành để biết dữ liệu gồm những trường thông tin gì, lấy từ các nguồn có sẵn và chưa có sẵn. Chẳng hạn như dữ liệu về doanh nghiệp cần lấy từ cơ sở dữ liệu quốc gia về doanh nghiệp; dữ liệu cá nhân lấy từ cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư…

Trên cơ sở dữ liệu đã có, cần thực hiện liên thông dữ liệu, trong đó xác định dữ liệu chủ và dữ liệu phụ thuộc, kho dữ liệu cá nhân, của từng doanh nghiệp để doanh nghiệp có thể tái sử dụng dữ liệu đã có.

Về hạ tầng, Bộ Thông tin và Truyền thông có hệ thống tích hợp chia sẻ dữ liệu quốc gia. Theo kiến trúc dữ liệu điện tử Chính phủ, toàn bộ dữ liệu “chạy” qua đây và hệ thống tích hợp chia sẻ dữ liệu quốc gia đảm bảo năng lực.

Anh Mai (Vietnam Business Forum)