15:37:37 | 7/6/2012
Thiếu chiến lược tiếp thị đồng bộ và lâu dài cho cả ngành thủy sản, chưa tạo được thương hiệu quốc gia, các doanh nghiệp chưa chú trọng đúng mức đến phát triển các mặt hàng giá trị gia tăng, sản phẩm chưa tiếp cận được phân khúc cao cấp, truy xuất nguồn gốc còn nhiều hạn chế… khiến Việt Nam đang gặp rất nhiều trở ngại khi xuất khẩu (XK) thủy sản vào thị trường EU.
EU - Đối tác tiêu thụ thủy sản lớn nhất của Việt Nam
Ông Trương Đình Hòe, Tổng Thư ký Hiệp hội chế biến và XK thủy sản Việt Nam (Vasep) cho biết từ năm 2007, EU đã vượt qua Nhật Bản để trở thành đối tác NK thủy sản lớn nhất của Việt Nam, với tốc độ phát triển nhanh và ổn định. Năm 2011, EU dẫn đầu với 21,8% thị phần kim ngạch XK thủy sản Việt Nam, đứng trước Hoa Kỳ 19,3% và Nhật Bản 16,4%. Với sự đa dạng về các sản phẩm XK, Việt Nam cung cấp nhiều loại sản phẩm khác nhau đến thị trường EU, trong đó XK cá tra là chủ lực. Tuy nhiên khủng hoảng kinh tế toàn cầu cộng thêm chiến dịch bôi xấu chất lượng sản phẩm thủy sản Việt Nam ở một số nước như Italia, Tây Ban Nha, Ai Cập… khiến cho lượng cá tra của Việt Nam XK sang EU những năm gần đây có dấu hiệu ngày càng sụt giảm (năm 2011 giảm hơn 1 %). Bù lại XK tôm vào EU dự báo sẽ tiếp tục tăng nhanh trong những năm tới. Năm 2011, XK tôm vào EU tăng 20,3% so với năm 2010, đưa Việt Nam vào vị trí thứ 5 trong nhóm XK tôm hàng đầu vào EU với thị phần tăng từ 6, 1% năm 2010 lên 7,5% năm 2011.

3 tháng đầu năm 2012, kim ngạch XK thủy sản Việt Nam đạt hơn 1,3 tỷ USD, trong đó EU vẫn là thị trường NK hàng đầu với 260 triệu USD. Sở dĩ các mặt hàng thủy sản của Việt Nam nhanh chóng chinh phục và có sự tăng trưởng cao tại thị trường EU, theo ông Hòe chủ yếu do Việt Nam nhiều lợi thế, trong đó nổi bật nhất là năng lực chế biến của chúng ta tương đối lớn với 539 nhà máy chế biến đạt tiêu chuẩn VSATTP quốc gia, 393 nhà máy đạt chứng nhận XK vào EU; công suất cấp đông 7.500MT/ngày. Đến nay có 49 nhà máy chế biến có chứng nhận GlobalG.A.P (45% tổng số các nhà máy cá tra); 103 trại nuôi cá tra đang áp dụng các tiếu chuẩn nuôi an toàn khác; 5 trại nuôi cá tra thuộc các doanh nghiệp chế biến đang tiếp cận chứng nhận ASC. Ngoài ra ngành nuôi tôm cũng đang quản lý nguồn nguyên liệu thông qua liên kết với các hợp tác xã nuôi tôm tại những vùng nuôi trọng điểm.
Thêm một lợi thế nữa của Việt Nam, đó là nguồn cung cấp từ nuôi trồng khá dồi dào. Năm 2011, sản lượng thủy sản nuôi trồng đạt 2,93 triệu tấn, tăng 7,4% so với năm 2010. Trong đó sản lượng tôm đạt 632.900 tấn và cá tra 1.195.344 tấn. Bên cạnh đó với việc dịch chuyển sang nuôi tôm chân trắng đáp ứng nhu cầu thế giới đang chuyển dần sang các sản phẩm tôm cỡ nhỏ, giá rẻ phần nào giải quyết vấn đề nguyên liệu tôm sú thiếu hụt do dịch bệnh và thời tiết bất lợi. Tỷ trọng tôm chân trắng XK chiếm 29,3% so với 26% năm 2010, tôm sú 59,7%, tôm càng xanh và các loài khác chiếm hơn 10%.
Theo ông Struan Stevenson - Phó chủ tịch Ủy ban nghề cá Nghị viện châu Âu, cá tra và basa là những mặt hàng lợi thế của ngành thủy sản Việt Nam, do vậy đẩy mạnh XK 2 mặt hàng tiềm năng này sang thị trường EU là hướng đi đúng đắn và mang tính chiến lược. Mặc dù phải đối mặt với nhiều thách thức, đặc biệt là các rào cản thương mại kỹ thuật song chỉ riêng trong năm 2011, Việt Nam cũng đã XK hơn 600.000 tấn cá tra, basa sang EU. Từ con số ấn tượng này cộng với sự tăng trưởng đều đặn bất chấp mọi thách thức, có thể khẳng định ngành thủy sản Việt Nam đã thành công trong việc tạo lập được chỗ đứng tại thị trường EU, được người tiêu dùng nơi đây ưa chuộng.
Vẫn còn nhiều thách thức
Mặc dù thủy sản Việt Nam đã có chỗ đứng trên thị trường EU, tuy nhiên tình hình khủng hoảng nợ công đang vào giai đoạn khốc liệt khiến thị trường EU ngày càng khắt khe hơn với các mặt hàng NK, trong đó có các mặt hàng thủy sản của Việt Nam.
Đề cập đến những khó khăn, thách thức của thủy sản Việt Nam khi XK vào thị trường EU, ông Hòe cho biết điểm yếu hiện nay là thủy sản Việt Nam thiếu chiến lược tiếp thị đồng bộ và lâu dài. Mặc dù đang nằm trong top 5 nhà cung cấp thủy sản lớn nhất thế giới, nhưng đến nay Việt Nam còn thiếu chiến lược tiếp thị toàn cầu lâu dài cho cả ngành thủy sản; thiếu hệ thống cung cấp thông tin đầy đủ, chính thức trước các thông tin sai lệch vế chất lượng, việc nuôi trồng thủy sản XK của Việt Nam tại thị trường EU và thế giới nói chung.
Không những thế, hơn 70% sản phẩm XK từ Việt Nam là chế biến thô, trong đó, đối với cá tra trên 80% là fillet đông lạnh, do đó, sản phẩm của Việt Nam chưa tiếp được phân khúc cao cấp và cho dòng sảm phẩm giá trị gia tăng tại thị trường EU, thị trường được coi là đầy tiềm năng cho chế biến và ăn liền (hằng tháng EU NK 3 tỉ USD thủy sản nguyên liệu và 1,6 tỉ USD thủy sản chế biến). Ngay cả mặt hàng tôm, mặt hàng Việt Nam khá thành công tại Nhật Bản cho các sản phẩm cao cấp thì hầu như vẫn chưa tiếp cận sâu vào thị trường EU. Đặc biệt do thiếu vốn, thiếu định hướng XK và đầu tư lâu dài nên các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay chưa chú trọng đúng mức đến phát triển các mặt hàng giá trị gia tăng.
Xu hướng của thị trường hiện nay là yêu cầu truy xuất nguồn gốc ngày càng tăng và Việt Nam đang có những chuyển biến tích cực trong việc mở rộng phạm vi quản lý chất lượng ra ngoài nhà máy chế biến. Tuy nhiên về vấn đề này, Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế chủ yếu do các trang trại nuôi tôm còn nhỏ lẻ nên việc thực hiện truy xuất nguồn gốc đối với tôm tốn chi phí khá cao. Đó chính là một trong những nguyên nhân tôm Việt Nam khó thâm nhập thì trường EU. Ngoài ra với khó khăn trong việc tiếp cận vốn vay, lãi suất cao, chỉ có các doanh nghiệp mạnh về tài chính mới đủ sức đầu tư toàn chuỗi giá trị; những doanh nghiệp khác chọn các hình thức liên kết nhà máy sản xuất thức ăn, người nuôi.
Bên cạnh những yếu kém như thiếu chiến lược tiếp thị đồng bộ và lâu dài, chưa tạo được thương hiệu quốc gia, truy xuất nguồn gốc còn nhiều hạn chế thì các rào cản thương mại cũng là một quan ngại lớn của ngành thủy sản Việt Nam trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt như hiện nay. Rào cản phi thuế quan lớn nhất ảnh hưởng đến XK của Việt Nam sang EU liên quan đến việc sử dụng các công cụ phòng vệ thương mại của EU, chủ yếu là chống bán phá giá cũng như các biện pháp kiểm dịch động thực vật (SPS) và các rào cản kỹ thuật (TBT). Trong đó những biện pháp rào cản kỹ thuật luôn là những thách thức đối với các doanh nghiệp XK thủy sản Việt Nam. Bà Nguyễn Thị Thu Sắc - Phó Chủ tịch Vasep cho biết mặc dù có thuận lợi là EU đã công nhận Cục quản lý chất lượng nông lâm thủy sản (Nafiqad) đủ tiêu chuẩn kiểm tra an toàn vệ sinh thực phẩm để xuất vào EU, tuy nhiên nếu một lô hàng thủy sản nào đó bị phía EU kiểm tra nhưng không đạt tiêu chuẩn thì ngay lập tức sẽ bị trả về. Chính vì vậy các doanh nghiệp Việt Nam phải luôn chạy theo các tiêu chuẩn VSATTP, đảm bảo các tiêu chuẩn vùng nuôi và phải tăng cường đầu tư nhiều hơn nữa để có thể đáp ứng các yêu cầu từ phía EU.
Gia Hòa