12:07:30 | 22/1/2013
Năm 2012, tăng trưởng xuất khẩu và kiểm soát nhập siêu thành công đã trở thành hai điểm sáng của nền kinh tế, góp phần quan trọng vào tăng trưởng GDP của Việt Nam, tạo công ăn việc làm, tiêu thụ hàng hóa cho nông dân và giảm bớt lượng hàng tồn kho. Tuy nhiên, đằng sau những con số này vẫn còn ẩn chứa nhiều vấn đề, nhiều bất cập trong hoạt động xuất nhập khẩu, cũng như trong bản thân nền kinh tế.
Xuất siêu: Niềm vui chưa trọn vẹn
Quy mô xuất khẩu được mở rộng, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng nhập khẩu, góp phần cải thiện đáng kể cán cân thương mại giữa Việt Nam và các nước. Năm 2012, lần đầu tiên sau 20 thập kỷ Việt Nam có cán cân thương mại xuất siêu ở mức 284 triệu USD.
Tuy nhiên, Tiến sĩ Nguyễn Đức Thành – Đại học Quốc gia phân tích: Xét về đặc thù, xuất siêu phụ thuộc hai yếu tố: xuất khẩu và nhập khẩu. Năm 2012 xuất khẩu không tăng nhiều nhưng nhập khẩu giảm đột ngột. Điều này gây e ngại vì lý do là tăng trưởng chậm, doanh nghiệp thu hẹp sản xuất nên không nhập thêm nguyên vật liệu phục vụ sản xuất.

Điển hình như ngành dệt may, sau nhiều năm nỗ lực gia tăng tỷ lệ nội địa hóa, năm 2012, toàn ngành vẫn phải nhập đến 90% nguyên liệu. Trong một nền kinh tế gia công chế biến là chính, việc bó hẹp nhập nguyên nhiên liệu gây ra nhiều lo lắng. Sản xuất năm 2012 giảm sút có thể kéo theo sự đình trệ về tăng trưởng các năm sau đó.
Số liệu của Bộ Công Thương cho thấy khối các doanh nghiệp FDI xuất siêu đến 13 tỷ USD bao gồm cả dầu thô, trong khi khối các doanh nghiệp trong nước nhập siêu đến 11,7 tỷ USD. Điều này cho thấy sự chênh lệch về thị trường rất lớn, khiến niềm vui xuất siêu năm nay không trọn vẹn. Trên thực tế, các loại hàng hóa, nguyên liệu nhập khẩu trong thời gian qua hầu hết phục vụ khối doanh nghiệp FDI.
Cơ cấu xuất khẩu “có vấn đề”
Kim ngạch xuất khẩu cả năm đạt 114,63 tỷ USD, tăng 18,3% so với năm 2011. Mức tăng trưởng này cao hơn 5,3% so với mục tiêu đề ra. Các nhóm hàng, mặt hàng xuất khẩu chủ lực đều tăng trưởng trong năm 2012. Nhóm hàng nông sản, thủy sản đạt tốc độ tăng 6,4%, nhóm hàng nhiên liệu và khoáng sản tăng 4,2% và nhóm hàng công nghiệp chế biến tăng 24,7%.
Ông Phan Thế Ruê – Chủ tịch Hiệp hội Bán lẻ - nguyên Thứ trưởng Bộ Thương mại (Bộ Công Thương) cho rằng mặc dù xuất khẩu đạt 114 tỷ, xấp xỉ 18,3%, đây là con số ấn tượng. Tuy nhiên, khi mổ xẻ con số đó thì phần lớn đóng góp vào doanh thu xuất khẩu đến từ khối doanh nghiệp FDI. Họ xuất khẩu vào những thị trường có sẵn, theo những đơn hàng có sẵn. Phần còn lại phụ thuộc vào tăng trưởng dầu thô – mặt hàng có trong danh mục an ninh năng lượng không khuyến khích xuất khẩu. Còn thị trường xuất khẩu, khả năng sản xuất, khả năng huy động vốn của các doanh nghiệp trong nước đang gặp khó khăn”.
Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu do khối các doanh nghiệp FDI sản xuất và là những mặt hàng dựa vào nguồn lao động rẻ và gia công hơn là những mặt hàng có hàm lượng khoa học - kỹ thuật cao. Việt Nam mới chỉ tận dụng được lợi thế so sánh sẵn có để phát triển XK mà chưa khai thác được lợi thế cạnh tranh để phát triển những mặt hàng có hàm lượng công nghệ cao và giá trị gia tăng lớn. Các mặt hàng XK có giá trị gia tăng thấp, chưa thực sự tham gia chuỗi sản xuất và lưu thông sản phẩm của các tập đoàn đa quốc gia trong khu vực và thế giới.
Một số nhóm ngành xuất khẩu của Việt Nam cũng đối mặt với sức ép lớn. Tỉ trọng xuất khẩu của nhóm hàng khoáng sản đang giảm dần qua từng năm cùng với việc Nhà nước chuyển hướng mục tiêu là giảm khối lượng xuất khẩu khoáng sản thô, chuyển dần sang xuất khẩu sản phẩm chế biến, tận dụng các cơ hội thuận lợi về thị trường và giá cả để tăng giá trị xuất khẩu nhóm hàng nhiên liệu và khoáng sản.
Tiến sĩ Lương Văn Khôi,Trung tâm Thông tin và Dự báo Kinh tế xã hội quốc gia (NCEIF) cho rằng vào những tháng cuối năm 2012, dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2013 giảm so với trước đó (từ mức 3,9% xuống 3,4%). Điều đó chứng tỏ nền kinh tế thế giới vẫn đang chứa đựng nhiều rủi ro. Các đối tác nhập khẩu quan trọng của Việt Nam là Mỹ và Nhật Bản chưa có sự khởi sắc. Tốc độ tăng trưởng của Mỹ được dự báo chỉ nhỉnh hơn năm 2012, trong khi tốc độ tăng trưởng kinh tế của Nhật Bản được dự báo sụt giảm hơn. Điều này sẽ gây tác động không nhỏ đến xuất khẩu của Việt Nam trong năm 2013.
Việt Nam đang trong lộ trình xóa bỏ và giảm thiểu các trợ cấp xuất khẩu theo cam kết gia nhập WTO. Trong khi đó việc sử dụng các hàng rào bảo hộ kĩ thuật của các nước nhập khẩu, đặc biệt là hàng rào về chất lượng có thể khiến cho hàng xuất khẩu Việt Nam mất đi những lợi thế cạnh tranh tương đối. Vừa qua, một số mặt hàng như tôn thép, tôm nước ấm xuất khẩu của Việt Nam lại gặp khó vì các rào cản thương mại.
Mục tiêu “khiêm tốn” cho 2013
Theo báo cáo về kế hoạch phát triển công nghiệp và thương mại năm 2013, Bộ Công Thương đặt mục tiêu đạt tổng kim ngạch xuất khẩu khoảng 126,1 tỷ USD, tăng 10% so với năm 2012; tổng kim ngạch nhập khẩu dự kiến đạt khoảng 136 tỷ USD, tăng 19%. Tỷ lệ nhập siêu dự kiến sẽ được duy trì ở khoảng 8% so với tổng kim ngạch xuất khẩu.
Với những mục tiêu trên, nhiệm vụ đưa ra là đẩy mạnh xuất khẩu, nhất là những mặt hàng có giá trị gia tăng cao, tạo việc làm; kiểm soát chặt chẽ các mặt hàng nhập khẩu không khuyến khích, các mặt hàng trong nước đã sản xuất được; tăng cường xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường xuất khẩu; nâng cao hiệu quả công tác dự báo thị trường trong và ngoài nước…
Ở thị trường trong nước sẽ thực hiện nhất quán chủ trương quản lý giá theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước đối với điện, than, xăng dầu, dịch vụ công theo lộ trình phù hợp với yêu cầu kiểm soát lạm phát…
Hương Ly