NTT DATA Việt Nam: CNTT - Cơ hội và thách thức

11:08:20 | 2/12/2014

Là thành viên đầu tiên của tập đoàn NTT DATA (Nhật Bản) tại Đông Dương, NTT DATA Việt Nam tuy mới hiện diện tại Việt Nam từ tháng 1/2008 nhưng đã có sự phát triển vững chắc cả về chất và lượng. Qua những hoạt động của mình, NTT DATA Việt Nam đã góp phần bắc cầu nối hợp tác giữa các doanh nghiệp IT hai nước Việt Nam và Nhật Bản. Nhân dịp xuất bản Đặc san song ngữ Việt Nhật về IT, tạp chí Vietnam Business Forum đã hân hạnh có cuộc trao đổi với ông  Akira Watanabe, Tổng Giám đốc NTT DATA Việt Nam về một số nội dung liên quan, Lê Sáng thực hiện.

Xin ông vui lòng điểm lại những dấu mốc và kết quả chính của chặng đường đi lên của NTT Data Việt Nam ?

NTT Data Việt Nam được thành lập từ tháng 1/2008 tại Hà Nội và là chi nhánh đầu tiên của NTT Data Group tại Đông Dương. Từ đó đến nay, chúng tôi đã có phát triển vững chắc cả về chất và lượng với một tốc độ tương đối cao.

Hiện NTT Data Việt Nam cung cấp các sản phẩm đa dạng bao gồm: Gói giải pháp cho các doanh nghiệp (L-Series, W-Series), CAD Cam; Các sản phẩm nhập ngoại (offshore products); Hệ thống IT cho các cơ quan chính phủ và cơ quan chức năng như: (VNACCS to Vietnam Custom, PANADES to VATM, BRIMOS to Can Tho Bridge, thẻ thông minh cho xe buýt Hà Nội, …)

Bên cạnh đó, chúng tôi đã thiết lập mối quan hệ tốt và phối hợp kinh doanh với các công ty IT tại Việt Nam như FPT, VNPT, và thiết lập mối quan hệ tốt với các đối tác (SAP, ..) trong việc cung cấp giải pháp cho các doanh nghiệp và cơ quan chính phủ Việt Nam.

Có thể điểm qua một số dấu mốc lớn của chúng tôi như sau: Năm 2009: Thành lập văn phòng thứ 2 của tại thành phố Hồ Chí Minh hướng đến các doanh nghiệp nước ngoài và đào tạo. Năm 2013: giành được dự án ODA của JICA trong việc cung cấp hệ thống tự động thông quan điện tử - VNACCs cho Tổng cục Hải quan Việt Nam. Năm 2014: thành lập văn phòng thứ 3 của chúng tôi tại Đà Nẵng với 180 nhân viên.


Đánh giá của ông về chất lượng nguồn nhân lực IT của Việt Nam hiện nay?

Hầu hết nguồn nhân lực IT tại Việt Nam đều là sinh viên tốt nghiệp ngành IT, họ có trình độ và kỹ năng tốt, đồng đều nhưng lại chưa có sự đột biến. Các bạn trẻ mới ra trường rất thông minh và nhiệt tình, có thể làm được bất kì việc gì mà không ngại khó.

Những năm gần đây, nguồn nhân lực IT của Việt Nam đã tiến gần tới mặt bằng của các nước như Trung Quốc, Ấn Độ trong khi chi phí vẫn ở mức hợp lý. Các bạn có đội ngũ nhân lực trẻ đông đảo có thể học hỏi nhanh chóng để phát triển phần mềm ứng dụng với chất lượng cao. Ngoài ra, ngày càng nhiều các bạn trẻ Việt Nam trong lĩnh vực IT có khả năng về tiếng Nhật, đây là một lợi thế để làm việc với các công ty Nhật Bản. Những điều này đã mang lại cho Việt Nam một lợi thế cạnh tranh mới để trở thành một trung tâm gia công phần mềm toàn cầu và BPO.

Có một vấn đề là, các kỹ sư CNTT Việt Nam dường như hơi thụ động, họ làm theo các yêu cầu rất tốt nhưng chưa chủ động đưa ra những giải pháp nhằm tối đa hóa hiệu quả công việc. Một điều nữa là việc họ có khả năng chuyển công ty bất cứ lúc nào nên việc này ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động đào tạo của chúng tôi trong trung và dài hạn.

Theo ông nguồn nhân lực CNTT của Việt Nam đang thiếu gì để đáp ứng nhu cầu của các đối tác, nhất là đối tác Nhật Bản?

Đầu tiên, ngôn ngữ vẫn là rào cản lớn nhất, khi cả hai kỹ sư CNTT tại Việt Nam và Nhật Bản không có kỹ năng tiếng Anh thì các công ty CNTT Việt Nam phải có các kỹ sư biết tiếng Nhật để có thể đáp ứng các đơn đặt hàng từ khách hàng Nhật Bản.

Thứ hai, nguồn nhân lực CNTT Việt Nam còn yếu ở những kiến ​​thức trong các lĩnh vực mà CNTT có thể hỗ trợ gián tiếp. Như tại Nhật Bản, nguồn nhân lực IT không nhất thiết phải học ngành IT mà có thể là học các ngành khác. Việc này sẽ tạo ra lợi thế khi cung cấp sản phẩm cho các đối tượng khách hàng khác nhau, những người có kinh nghiệm về các lĩnh vực sẽ trực tiếp là người trải nghiệm sản phẩm.

Thứ ba, nguồn nhân lực CNTT Việt Nam có ít kinh nghiệm về quản lý dự án. Đó vẫn còn khó khăn cho các công ty Nhật Bản để đặt hàng phát triển hệ thống CNTT lớn hơn so với một quy mô nhất định cho các công ty Việt Nam

Theo ông, việc gia nhập thị trường Việt Nam có ý nghĩa như thế nào trong chiến lược phát triển chung của NTT Data?

NTT DATA đã mở rộng hoạt động kinh doanh trên toàn thế giới, Việt Nam là quốc gia thuộc khu vực APAC, nơi thị trường CNTT đang tăng trưởng mạnh qua các năm, và mở rộng kinh doanh trong khu vực này là một trong những chiến lược của NTT DATA.

Trong những năm gần đây, Nhật Bản là đối tác FDI hàng đầu của Việt Nam, mối quan hệ tốt đẹp giữa 02 quốc gia đã tạo ra những điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp của hai nước để phát triển kinh doanh ở cả Việt Nam và Nhật Bản. Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe vào năm 2013 đã có chiến lược để khuyến khích và thúc đẩy xuất khẩu các công nghệ Nhật Bản, hệ thống, cơ sở hạ tầng cho các nước ASEAN. Trong bài phát biểu của Chủ tịch nước Việt Nam, Ông Trương Tấn Sang đã có nhấn mạnh rằng Nhật Bản là đối tác quan trọng của Việt Nam. Như vậy, gia nhập thị trường VN là một cơ hội lớn đồng thời cũng là thách thức của NTT Data để bảo đảm nguồn nhân lực CNTT được đào tạo tốt với giá hợp lý, giảm chi phí cho các dự án toàn cầu của tập đoàn. Việc này cũng mở ra một thị trường nội địa tiềm năng bởi tại Việt Nam chính phủ đang tiến tới xây dựng chính quyền điện tử và các công ty tại Việt Nam đang ngày càng áp dụng các giải pháp CNTT tiên tiến trong quản lý kinh doanh.

Tổ chức hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) sẽ tài trợ 60 triệu Yên trong vòng 3 năm từ 2014 để bồi dưỡng, nâng cao năng lực đội ngũ kỹ sư IT cho các doanh nghiệp Việt Nam, làm nền tảng để mở rộng hợp tác giữa doanh nghiệp IT Việt Nam và Nhật Bản, dự án do VINASA và SITF (Tổ chức tiên phong IT thành phố Sapporo Nhật Bản) phối hợp thực hiện. Ông đánh giá như thế nào về triển vọng của dự án này?.

Ngành CNTT tại Việt Nam đã có sự phát triển trong những năm gần đây, số lượng kỹ sư CNTT đã tăng nhưng các bạn cũng cần bổ sung các kinh nghiệm, công nghệ tiên tiến, kỹ năng làm việc chuyên nghiệp và các tiêu chuẩn toàn cầu. Chương trình nói trên sẽ là cơ hội cho các kỹ sư Việt Nam nâng cao kỹ năng, đồng thời mở ra cầu nối giúp hai nước hiểu thị trường và văn hóa của nhau. Để thực hiện dự án này có ý nghĩa hơn, Việt Nam cần thể hiện lợi thế của vượt trội so với các nước cạnh tranh khác như Trung Quốc và Ấn Độ, và Nhật Bản cũng nên biết lợi thế của Việt Nam và thực hiện một chiến lược hiệu quả trong hợp tác với Việt Nam.

Nhân dịp phát hành chuyên đề song ngữ Việt - Nhật về lĩnh vực Công nghệ thông tin, theo nhận định của ông để tăng cường quan hệ hợp tác giữa doanh nghiệp hai nước, nhất là trong lĩnh vực mà NTT Data Việt Nam đang hoạt động thì đâu là những điểm cần chú trọng hơn trong thời gian tới?

Việc xuất bản tạp chí tiếng song ngữ Việt Nhật là dịp tốt giúp doanh nghiệp của 2 nước hiểu sâu sắc các vấn đề mới nhất liên quan đến CNTT trên thực tế theo quy định của chính phủ, đồng thời đây là diễn đàn cho  các doanh nghiệp 2 nước trao đổi các ý tưởng, kinh nghiệm. Để đẩy mạnh hơn nữa sự hợp tác trong lnhx vực CNTT của hai nước chúng tôi cho rằng cần tập trung vào các giải pháp sau.

- Cung cấp các thông tin cập nhật mới nhất của ngành công nghiệp CNTT của hai nước

- Tạo diễn đàn để trao đổi kinh nghiệm giữa Việt Nam và Nhật Bản

- Liên tục cập nhật các công nghệ tiên tiến trên thế giới.

- Tạo diễn đàn cho các doanh nghiệp hai nước trao đổi các cơ hội hợp tác kinh doanh giữa các doanh nghiệp mới của quốc gia.

- Cập nhật các quy định mới nhất liên quan đến CNTT của Chính phủ 2 quốc gia./.

Xin cám ơn ông.