Chè Việt Nam: Mất thương hiệu vì doanh nghiệp không quan tâm

08:50:33 | 9/8/2010

Mới đây, tại Hà Nội, Hiệp hội Chè Việt Nam đã tổ chức “Hội nghị quốc tế chè Việt Nam năm 2010” với chủ đề “Đổi mới để thành công”. Ngành công nghiệp chè Việt Nam đã có bước phát triển nhanh về số lượng và chất lượng.

Chè Việt Nam đã có mặt ở 118 quốc gia và vùng lãnh thổ, đứng thứ 5 trên thế giới về sản lượng và xuất khẩu. Tuy nhiên, thương hiệu chè Việt vẫn còn rất mờ nhạt bởi 95% khối lượng chè Việt Nam được xuất khẩu dưới dạng nguyên liệu thô, chỉ có 5% được xuất khẩu dưới dạng thành phẩm.

Cạnh tranh không lành mạnh

Hiện Việt Nam có tổng diện tích chè khoảng 131.000 ha, phát triển tai 34 tỉnh, thu hút khoảng 6 triệu lao động. Theo kế hoạch đến 2015, diện tích chè sẽ được nâng lên 150.000 ha. Cả nước đã có khoảng 690 nhà máy chế biến chè, chưa kể hàng vạn lò thủ công chế biến chè khác. Trong khi, với diện tích trồng chè 131.000 ha, Việt Nam chỉ cần khoảng 200 nhà máy chế biến.

Việc có quá nhiều nhà máy chè được cấp phép, khiến vùng nguyên liệu chỉ đáp ứng được 50% nhu cầu, dẫn tới tình trạng hỗn loạn trong thu mua nguyên liệu. “Có những vùng nguyên liệu chỉ đủ cung cấp cho 1 nhà máy, nhưng có tới 7- 8 nhà máy tranh mua nguyên liệu. Chính vì thiếu nguyên liệu nên ngành chè mỗi năm chỉ chế biến được khoảng 160.000 tấn, bằng ½ năng lực sản xuất và chỉ thu được khoảng 130- 140 triệu USD, gây lãng phí công sức, tiền bạc của nhân dân, tạo ra nhiều vấn đề cạnh tranh không lành mạnh”, ông Đoàn Anh Tuân, Chủ tịch Hiệp hội Chè Việt Nam bộc bạch.

Bà Nguyễn Thị Thi, Giám đốc Công ty TNHH Trà Chính Sơn (Hà Nội) cho biết, từ chỗ thiếu nguyên liệu, người trồng chè vì lợi nhuận đã phải sử dụng thuốc trừ sâu, phân hóa học để tăng năng suất, bất chấp phẩm cấp của sản phẩm. Tình trạng này dẫn đến chất lượng sản phẩm không đồng đều, thua kém so với các quốc gia trên thế giới, gây ảnh hưởng đến uy tín của chè Việt Nam.

Làm ăn manh mún, nhỏ lẻ

Mặc dù, thương hiệu quốc gia chè Việt đã được xây dựng từ nhiều năm nay. Tuy nhiên, hiện mới chỉ có gần 20 doanh nghiệp đăng lý tham gia sàn xuất khẩu chè theo đúng tiêu chuẩn của chè Việt.

Theo Hiệp hội Chè Việt Nam, việc các doanh nghiệp không mặn mà tham gia đăng ký sản xuất chè theo tiêu chuẩn chè Việt đó là do sản phẩm chè Việt giá cao khó bán, mặc dù chất lượng tốt hơn so với nhiều sản phẩm cùng loại của các quốc gia khác. Bởi đối với giới thương lái, nhất là các thương lái nước ngoài, họ chỉ nghĩ đến lợi nhuận nên dù chè Việt chất lượng đảm bảo nhưng vì giá cao, lãi ít nên họ không mua mà mua chè không thương hiệu, giá rẻ, thu được lợi nhuận nhiều hơn. Điều đáng buồn là, doanh nghiệp nước ngoài không quan tâm vun đắp thương hiệu chè Việt Nam đã đành, mà ngay bản thân các doanh nghiệp trong nước cũng không hơn gì khi chỉ muốn tranh nhau bán được càng nhiều càng tốt, không cần quan tâm đến việc xây dựng thương hiệu, tiếp thị và quảng bá sản phẩm. Lối làm ăn manh mún, nhỏ lẻ đó khiến Việt Nam dù có nhiều loại chè ngon nhưng vẫn không đứng vững ở thị trường nước ngoài, không xây dựng được thương hiệu nổi tiếng. Thực tế là, trong số 130.000 tấn chè xuất khẩu, có tới 99% trong số đó được các công ty nước ngoài mua về, đấu trộn với chè của họ và làm thương hiệu cho nước bạn.

Ông Đoàn Anh Tuân thừa nhận, nguyên nhân khiến thương hiệu chè Việt gần như dậm chân tại chỗ là do sự cạnh tranh không lành mạnh giữa chính các doanh nghiệp trong nước, cùng với kiểu làm ăn “chộp giật”, “tham bát bỏ mâm”… Nhiều doanh nghiệp chạy theo lợi nhuận trước mắt, đã sản xuất và xuất khẩu những sản phẩm chè kém chất lượng, gây ảnh hưởng nghiêm trong tới uy tín của ngành chè Việt Nam. Thêm vào đó, bản thân doanh nghiệp cũng chưa thực sự muốn phát triển vùng nguyên liệu. Vấn đề quản lý chất lượng sản phẩm, đặc biệt là vệ sinh an toàn thực phẩm vẫn chưa được quan tâm đúng mức.

Bà Nguyễn Thu Hằng, đại diện công ty Tea Agencles chỉ rõ, chính kiểu tư duy làm ăn thiếu chuyên nghiệp, chậm bắt nhịp với nhu cầu luôn thay đổi của thế giới khiến Việt Nam- mặc dù đang đứng thứ 5 trên thế giới về xuất khẩu chè, nhưng giá chè xuất khẩu chỉ vào khoảng 1.500 USD/tấn, bằng ½ giá chè bình quân trên thế giới. Nhiều bất cập tồn tại từ lâu, nhưng vẫn chưa được doanh nghiệp sản xuất chè trong nước quan tâm, khắc phục như tồn dư thuốc trừ sâu trong chè xuất khẩu ở mức cao hơn nhiều so với quy định của EU, thiếu sự tuân thủ các hợp đồng dài hạn, thiếu quan tâm tới việc xây dựng thương hiệu cho sản phẩm chè trên thị trường thế giới…

Tại buổi đối thoại giữa doanh nghiệp sản xuất và khách hàng, với tư cách là nhà nhập khẩu, bà Hằng khẳng định, Tea Estate Agencies sẵn sàng mua chè của Việt Nam với giá tốt hơn nếu các doanh nghiệp kiểm soát được việc sử dụng thuốc trừ sâu và lượng dư tồn trên sản phẩm. Sản phẩm được giao phải có chất lượng tốt đúng như mẫu chào hàng.

Chủ tịch Hiệp hội Chè Pakistan, ông Muhammad Hanif Janoo cũng cho rằng, quốc gia này có thể trả giá cao hơn cho chè Việt Nam với điều kiện chất lượng phải ổn định. Thậm chí, nhiều doanh nghiệp Pakistan còn muốn đầu tư vào ngành chè ở Việt Nam với tư cách là đối tác kinh doanh để sản phẩm chè được sản xuất theo yêu cầu của người tiêu dùng Pakistan.

“Ngành chè nên chú trọng vào sản xuất các loại chè chất lượng cao, thay vì chạy theo số lượng. Bên cạnh đó, ngành chè cần phải phát triển trên cơ sở thiết lập mối liên kết kinh tế chặt chẽ giữa doanh nghiệp chế biến với người trồng chè, quan tâm hơn nữa tới công tác phân tích và nghiên cứu thị trường, các định được thị trường trọng tâm, thị trường tiềm năng, xác định sản phẩm chủ lực… để chè Việt Nam thực sự có chỗ đứng trên thị trường thế giới”, ông Lê Xuân, Cục trưởng Cục Chế biến Thương mại Nông - Lâm - Thủy sản và Nghề muối, Bộ NN&PTNT nhấn mạnh.

Đình Thanh