Hàng thủy sản Việt Nam hiện có mặt ở nhiều nước trên thế giới với kim ngạch xuất khẩu hàng tỷ USD mỗi năm, góp phần đưa Việt Nam trở thành một trong những nước cung ứng thuỷ sản lớn cho thế giới. Tuy nhiên, xuất khẩu thủy sản vẫn phụ thuộc nhiều vào nhu cầu tiêu dùng thế giới và văn hóa tiêu dùng của mỗi quốc gia.
Theo số liệu thống kê của Hải quan Việt Nam, trong giai đoạn 2006-2008, tốc độ tăng xuất khẩu hàng thuỷ sản đạt trung bình 19%/năm. Sau mức giảm 5,5% của năm 2009, xuất khẩu thuỷ sản trong 6 tháng đầu năm 2010 đạt 2,02 tỷ USD, tăng 14,5% so với cùng kỳ năm 2009.
Mặc dù trở thành nước xuất khẩu thủy sản nhiều năm nhưng các mặt hàng thuỷ sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam vẫn còn khá đơn điệu, chủ yếu là cá, tôm, nhuyễn thể, các loại thuỷ sản đông lạnh và thuỷ sản khô. Tuy cơ cấu mặt hàng thủy sản xuất khẩu của Việt Nam đã được bổ sung thêm các mặt hàng có giá trị như cá ngừ, nghêu và một số đặc sản khác nhưng nhìn chung vẫn còn chưa phong phú. Công nghệ chế biến của ngành thủy sản Việt Nam vẫn chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu tiêu dùng của thế giới.
Theo Tổng cục Hải quan, tính đến hết tháng 6/2010, EU, Nhật Bản, Hoa Kỳ vẫn là 3 thị trường nhập khẩu thuỷ sản lớn nhất của Việt Nam và có số tăng trưởng khá. Trong đó, xuất khẩu thuỷ sản sang EU đạt 515 triệu USD, tăng 8,5% so với cùng kỳ năm 2009. Xuất khẩu sang Nhật Bản trong 6 tháng 2010 đạt 373 triệu USD, tăng 18,7% so với cùng kỳ năm 2009. Xuất khẩu sang Hoa Kỳ trong 6 tháng 2010 cũng đạt gần 339 triệu USD, tăng 13% so với cùng kỳ năm 2009.
Thủy sản xuất khẩu là mặt hàng luôn có đòi hỏi cao về tiêu chuẩn an toàn thực phẩm mà một trong các quy trình điều chỉnh tiêu chuẩn chất lượng là HACCP. Cả ba thị trường lớn nhất của Việt Nam là EU, Nhật Bản và Hoa kỳ đều yêu cầu các doanh nghiệp khi chế biến và xuất khẩu hàng thủy sản có chứng nhận vệ sinh an toàn thực phẩm. Mặc dù vậy, theo các chuyên gia kinh tế nhận xét, trình độ năng lực quản lý của Việt Nam đã được cải thiện trong những năm gần đây nhưng so với những yêu cầu nghiêm ngặt của thị trường quốc tế vẫn còn khoảng cách khá xa. Doanh nghiệp Việt Nam không thể ngay một lúc đầu tư đồng loạt các phòng thí nghiệm để kiểm soát nguyên liệu xuất khẩu đầu vào và sản phẩm đầu ra mà phải ưu tiên đầu tư trọng tâm, trọng điểm. Đây là một trong những điểm yếu mà ngành xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam gặp phải.
Cơ quan hải quan cũng cho biết, đã có rất nhiều lô hàng thuỷ sản của Việt Nam đã bị trả lại, hoặc bị cảnh báo do lỗi không hợp chuẩn, không vượt qua được hàng rào kỹ thuật của nước nhập khẩu. Chính vì vậy, song song với việc tái cấu trúc quy trình chế biến sản phẩm theo các tiêu chuẩn tiên tiến như ISO, HACCP… doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam cần phải luôn sẵn sàng việc minh bạch giấy tờ và các chứng từ đầu vào để giải trình khi có đoàn kiểm tra của các nước yêu cầu.
Công nghiệp chế biến thủy sản đang trở thành ngành hàng xuất khẩu có sức cạnh tranh cao của Việt Nam. Hàng thủy sản Việt Nam đang từng bước khẳng định thương hiệu của mình trên thị trường quốc tế. Nhưng để ngành thủy sản thực sự trở thành ngành công nghiệp hàng đầu, góp phần xóa đói giảm nghèo và làm giàu cho đất nước, đòi hỏi sự nỗ lực và đầu tư hơn nữa của mọi cấp, mọi ngành, cho đến từng doanh nghiệp từ Trung ương đến địa phương phải cùng đồng tâm hiệp lực...