Lồng ghép trách nhiệm xã hội và phát triển bền vững vào doanh nghiệp

15:10:02 | 18/8/2010

Mạng lưới Hiệp ước toàn cầu Việt Nam- Global Compact Network Vietnam (GCNV) vừa tổ chức cuộc họp thành viên lần thứ 3 (định kỳ 6 tháng/lần) tại Hà Nội để các thành viên và các bên liên quan cùng tham gia, chia sẻ phương pháp làm thế nào để “lồng ghép trách nhiệm xã hội và phát triển bền vững vào DN.

Hội thảo cũng nhằm thúc đẩy và khuyến khích việc áp dụng trách nhiệm xã hội DN và các nguyên tắc của Hiệp ước toàn cầu trong doanh nghiệp (DN) và các tổ chức, đồng thời tạo diễn đàn kết nối giao lưu và đối thoại giữa các thành viên GCNV, hướng đến xây dựng kế hoạch hành động và chiến lược kinh doanh bền vững.

Theo ông Nguyễn Quang Vinh, đại diện mạng lưới hiệp ước toàn cầu Việt Nam (GCNV), Giám đốc Văn phòng DN vì sự phát triển bền vững (SD4B), VCCI cho biết, tính đến tháng 8/2010, GCNV đã kết nạp được 92 thành viên, trong đó có 55% là DN, 35% là các tổ chức phi chính phủ, 10% còn lại là các học viện, trường đại học và Hiệp hội DN. Xuất phát từ kiến nghị của các thành viên, GCNV tập trung phát triển tài liệu nghiên cứu, hướng dẫn thực hành trách nhiệm xã hội, tổ chức tập huấn định kỳ và xây dựng giáo trình giảng dạy về trách nhiệm xã hội DN cho các trường đại học. GCNV đã và đang vươn đến mục tiêu trở thành trung tâm trách nhiệm xã hội DN tầm quốc gia, hỗ trợ thành viên của mạng ưới thực hiện hiệu quả các chương trình trách nhiệm xã hội ở Việt Nam”.

GCNV đã hoàn thành nghiên cứu về vấn đề trách nhiệm xã hội tại Việt Nam và đề xuất giải pháp, công cụ làm thế nào để DN có thể lồng ghép vào chiến lược kinh doanh của mình một cách bền vững và hiệu quả nhất.

Chi phí hay đầu tư?

TS Richard Welford, Chủ tịch trung tâm CSR Châu Á nhận định: “trách nhiệm xã hội (TNXH) và phát triển bền vững đang là những vấn đề nóng hiện nay. Nhiều DN ở Việt Nam thường quan niệm rằng thực hành TNXH là chi phí chứ không phải là một khoản đầu tư dài hạn”.

Theo TS Richard, Việt Nam có bộ luật lao động chi tiết giải quyết các vấn đề như giờ làm việc, mức lương tối thiểu và thêm giờ, lao động dư thừa, quyền phụ nữ và lao động trẻ em, sức khoẻ và an toàn nghề nghiệp, thoả ước tập thể và hệ thống giải quyết tranh chấp...Tuy nhiên trong thực tế, các vấn đề này không được thực hiện triệt để. Có nhiều thách thức trong việc thực thi do nhiều công ty miễn cưỡng thực hiện và khả năng có hạn của bộ máy thanh tra lao động.

Bên cạnh đó, ô nhiễm nước và không khí đang ngày càng trở nên trầm trọng. Việt Nam được xem là quốc gia có đa dạng sinh học cao, xếp thứ 16 trên thế giới. Tuy nhiên, hệ sinh thái có mức đa dạng sinh học cao nhất lại đang bị suy giảm nghiêm trọng. Việt Nam đặc biệt dễ tổn thương trước các tác động xấu của biến đổi khí hậu, đặc biệt là dọc bờ biển.Trong khi đó, theo đánh giá của TS Richard, các luật về môi trường ở Việt Nam được thực thi không hiệu quả. Hầu hết các DN trong nước xem việc bảo vệ môi trường là chi phí gia tăng mà họ không thể chi trả.

TS Richard cũng cho biết, dù các nỗ lực chống tham nhũng đã đạt được kết quả tiến bộ trong việc chống tham nhũng, Chính phủ đã cảnh báo rằng nạn tham nhũng vẫn còn rất nghiêm trọng và ngày càng trở nên phức tạp. Các khoản chi phí bôi trơn trở nên thông dụng ở Việt Nam và “làm trôi chảy” các công việc kinh doanh hàng ngày. Đối với DN, tham nhũng là trở ngại lớn tới việc kinh doanh và tác động tới việc phát triển kinh tế nói chung.

Nếu những vấn đề trên được DN quan tâm và lồng ghép vào trong quá trình hoạt động sản xuất, chắc chắn “DN sẽ gia tăng giá trị nếu đạt được sự cân bằng giữa việc duy trì lợi nhuận và thực hiện TNXH hiệu quả, đồng thời Việt Nam có thể hưởng lợi từ DN có trách nhiệm hơn, vì vậy cần phát triển chiến lược để giải quyết các vấn đề quan trọng”, TS Richard khẳng định.

3 cấp độ thực hiện

Theo TS Richard, các công ty khi làm việc với CSR Asia đều yêu cầu sự giúp đỡ về TNXH. Vì vậy, theo CSR Asia, để giúp các công ty thực hiện tốt hơn TNXH trong quá trình kinh doanh, cần thực hiện vấn đề này với 3 cấp độ. Cấp độ 1, bước đầu thực hiện CSR, xác định các nguồn lực công ty cần (thời gian, tài chính, tư vấn và các dịch vụ kỹ thuật để bắt đầu hệ thống và chương trình thực hiện nhằm xây dựng ít nhất một lĩnh vực Hiệp ước toàn cầu. Đối với hệ thống quản lý và chính sách, có chính sách chung tại nơi làm việc về lao động, sức khoẻ và an toàn, quản lý môi trường, quyền con người và sự tham gia của cộng đồng.

Cấp độ 2, từng bước lồng ghép CSR vào chiến lược sản xuất kinh doanh. Cần có đủ nguồn lực để hỗ trợ giám đốc CSR được bổ nhiệm và các chương trình trong 2 lĩnh vực Hiệp ước toàn cầu. Cần nhận thức được rằng các nguồn lực được phân bổ cho các sáng kiến là một phần của việc đầu tư xây dựng hình ảnh và danh tiếng DN lâu dài. Khi đó, DN cần có các chính sách cụ thể và các quy tắc ứng xử cho người quản lý và công nhân trong ít nhất 2 lĩnh vực của Hiệp ước toàn cầu (ví dụ như các vấn đề lao động và chống tham nhũng).

Cấp độ 3, thực hiện CSR một cách chiến lược trong quá trình sản xuất kinh doanh. DN cần cam kết nguồn lực dài hạn từ phía quản lý cao cấp để đảm bảo có thể nâng cao TNXH theo thời gian. Khi đó, DN cần có các chính sách và quy tắc ứng xử chi tiết, cam kết và chiến lược rõ ràng cho các thông lệ lao động tốt, an toàn và sức khỏe, bảo vệ môi trường, quyền con người, chống tham nhũng, phát triển và sự tham gia của cộng đồng…

Quỳnh Anh