Cách nào để DN vượt qua rào cản kỹ thuật thương mại

09:47:36 | 8/10/2010

Với dân số 500 triệu người, châu âu là thị trường xuất khẩu quan trọng hàng đầu của doanh nghiệp (DN) Việt Nam.Tuy nhiên, cho đến thời điểm này, nhiều hàng hoá Việt Nam vẫn chưa định vị được thương hiệu ở thị trường này, hoạt động xuất khẩu của DN thường gặp không ít rào cản…

Khó khăn chồng khó khăn

Tại cuộc hội thảo mới đây với chủ đề: “Xuất khẩu và cơ hội thị trường với Liên minh châu Âu”, ông Matthias Duehn, Giám đốc EuroCham (Dr. Matthias Duehn. Executive Director –. EuroCham) cho biết, khối lượng các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường châu Âu hiện nay khá lớn, song mới chỉ ở dạng xuất thô, rất ít sản phẩm khẳng định được chỗ đứng rõ ràng trên thị trường bằng thương hiệu. Điều này cho thấy, để tránh bị thiệt thòi, DN Việt Nam cần quan tâm nhiều hơn đến chất lượng sản phẩm và đầu tư cho thương hiệu…

Theo các chuyên gia kinh tế, hàng hoá Việt Nam xuất khẩu vào EU vốn đã gặp không ít rào cản thì hiện nay, do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế kéo theo chủ nghĩa bảo hộ gia tăng, khiến cho hoạt động xuất khẩu của Việt Nam càng bị kiềm chế mạnh. Hầu hết các mặt hàng chủ lực của Việt Nam xuất khẩu vào EU bị áp thuế chống bán phá giá 10% và không được hưởng ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP).

Song song với khó khăn trên, EU vẫn có những chính sách bảo hộ nội khối. Việc xuất khẩu ồ ạt vào EU sẽ khiến khối đưa ra các biện pháp tự vệ, chống bán phá giá. Bà Đinh Thị Mỹ Loan-Chủ tịch Hội đồng tư vấn về phòng vệ thương mại, doanh nghiệp Việt Nam chia sẻ, DN Việt Nam cần hiểu rõ bản chất của các biện pháp phòng vệ nhằm giảm thiểu những tác động tiêu cực đến mức có thể trong trường hợp xảy ra các vụ kiện cáo về bán phá giá hay trợ cấp, vì phòng vệ thương mại là các biện pháp được WTO thừa nhận. EU là thị trường xuất khẩu mục tiêu của nhiều nước, trong đó có không ít nước được hưởng nhiều ưu đãi hơn Việt Nam. Đối thủ cạnh tranh của Việt Nam là một số nước chậm phát triển, được nhận mức thuế bằng 0% đối với hầu hết các mặt hàng và một số nước phát triển được công nhận có nền kinh tế thị trường đầy đủ.

Bà Đinh Thị Mỹ Loan cho hay, có 2 quy định từ phía EU đặc biệt quan trọng là TBT (Rào cản kỹ thuật trong thương mại) và SPS (Kiểm dịch vệ sinh động thực vật). Cá và thủy sản có vỏ, cà phê, gạo, hạt điều, chè, hạt tiêu, gỗ, rau quả, mật ong… là các mặt hàng nông- thủy- sản xuất khẩu chủ đạo của Việt Nam. Trong đó, cà phê, chè, gỗ và gạo thường không gặp phải các rào cản kỹ thuật chặt chẽ dưới hình thức các biện pháp vệ sinh dịch tễ mặc dù nước nhập khẩu có thể áp dụng quy định bắt buộc không có dư lượng bảo vệ thực vật hay mức độ nhiễm khuẩn quá mức cho phép. Trái lại, cá và thủy sản có vỏ lại là đối tượng chịu sự kiểm soát nghiêm ngặt để bảo đảm an toàn thực phẩm và sức khỏe, vệ sinh động vật. Rau quả cũng có thể bị hạn chế bởi các biện pháp SPS.

Các mặt hàng xuất khẩu có giá trị nhất vào EU trong số trên là cá và thủy sản có vỏ. Việc gia tăng trao đổi thương mại các mặt hàng này đòi hỏi Chính phủ phải xây dựng luật điều chỉnh và thành lập các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về kiểm soát chất lượng và đảm bảo an toàn thực phẩm. Điều kiện sản xuất của các cơ sở sản xuất phải đáp ứng yêu cầu vệ sinh an toàn thực phẩm. Xuất khẩu thủy sản đã tăng nhanh trong vòng 20 năm qua và cơ cấu đang thay đổi theo chiều hướng chuyển sang sản phẩm có giá trị cao hơn dưới hình thức chế biến sẵn cho các siêu thị. Việt Nam hiện có trên 300 cơ sở sản xuất đủ điều kiện để xuất khẩu cá và thủy sản có vỏ sang EU. Một lợi ích cũng rất quan trọng của việc đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng cao đối với các mặt hàng xuất khẩu này là chúng cũng có thể được tiêu thụ trong nước.

Đầu tư xuất khẩu theo tiêu chuẩn quốc tế

Nhìn chung, để đáp ứng các yêu cầu kiểm dịch động thực vật, các nhà sản xuất và thương nhân phải tốn kém chi phí không nhỏ. Trong trường hợp thị trường xuất khẩu áp dụng các tiêu chuẩn cao hơn các tiêu chuẩn của Việt Nam, chẳng hạn như tiêu chuẩn của EU, làm tăng đáng kể chi phí xuất khẩu của Việt Nam. Ví dụ như chi phí kiểm nghiệm để chứng minh không có dư lượng thuốc trừ sâu trong các lô hàng xuất khẩu có thể rất cao so với lợi nhuận, nhưng không nên kết luận các tiêu chuẩn của EU là “quá cao”.

Theo Hiệp định SPS, các nước thành viên của WTO có thể lựa chọn mức độ bảo vệ mong muốn và có quyền áp dụng mọi biện pháp cần thiết để bảo vệ sức khỏe và sinh mạng của con người, động thực vật nếu các biện pháp đó không vi phạm các điều khoản của Hiệp định. Thậm chí theo Hiệp định SPS, EU có thể áp dụng các quy định chặt chẽ so với các tiêu chuẩn quốc tế tương ứng (như trường hợp với tiêu chuẩn về độ nhiễm độc tố nấm mốc hoặc chất 3-MPCD trong thực phẩm) nếu hiệu quả của biện pháp đó có thể minh chứng được qua đánh giá rủi ro và EU phải quản lý rủi ro một cách nhất quán.

Ông Matthias Duehn cho rằng, DN Việt Nam cần phải biết chấp nhận các yêu cầu của EU đối với hàng hóa nhập khẩu trong ngắn hạn và thực hiện các hành động cần thiết để đảm bảo hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam đáp ứng các yêu cầu này, trừ khi Việt Nam tin rằng có thể khởi kiện biện pháp SPS của EU theo quy trình giải quyết tranh chấp của WTO. Theo cách tiếp cận này, các DN cần cân nhắc kỹ lưỡng các chi phí liên quan trước khi quyết định xuất khẩu sang EU. Đối với mặt hàng thủy sản, từ góc độ Việt Nam, tác động quan trọng nhất của các biện pháp SPS của EU là ở chỗ cho thấy ngành thủy sản Việt Nam cần phát triển như thế nào để có thể khai thác tốt được thị trường rộng lớn này. Trong số đó, tuân thủ các tiêu chuẩn của EU là điều kiện tiên quyết để có thể thâm nhập vào thị trường. Do đó, nếu muốn bán hàng sang EU, Việt Nam không còn sự lựa chọn nào khác ngoài đầu tư xây dựng ngành thủy sản xuất khẩu đạt tiêu chuẩn quốc tế.

Tuy nhiên, các chuyên gia kinh tế trong và ngoài nước cũng đưa ra phân tích, việc tuân thủ các biện pháp SPS là hết sức khó khăn. Đơn cử, việc nâng cao năng lực cho ngành thủy sản để đáp ứng yêu cầu của thị trường các nước phát triển như EU đòi hỏi sự hiệp lực của Chính phủ và các ngành. Sản xuất các sản phẩm thủy sản đáp ứng tiêu chuẩn EU đặt ra nhiều đòi hỏi về đội tàu, vận tải vào bờ, các trang trại nuôi thả, phương tiện bảo quản, nhà máy chế biến, phòng thí nghiệm phân tích..., đồng thời, cần phát triển song song việc đào tạo nguồn nhân lực trong khu vực tư nhân, thiết lập cơ chế quản trị tin cậy về thông lệ sản xuất, tăng cường năng lực quản lý và các cơ quan giám sát. Chi phí cho các phương diện này chưa thể xác định chính xác nhưng chắc chắn sẽ rất lớn. Lợi ích nằm ở việc Việt Nam có khả năng cung cấp các sản phẩm chất lượng cao không chỉ cho châu Âu mà còn cho Hoa Kỳ, Nhật, Úc và các thị trường yêu cầu cao về vệ sinh thực phẩm.

Hải Hằng