Hướng đến thế hệ DN FDI mới

10:35:43 | 7/4/2011

Chương trình khảo sát các DN có vốn đầu tư nước ngoài do nhóm nghiên cứu Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh- PCI lần đầu tiên thực hiện nằm trong Báo cáo PCI năm 2010 đã được công bố vừa qua. Mặc dù đây không phải là cuộc điều tra đầu tiên về các DN FDI tại VN, song với sự tham gia của 1.155 DN mang tính đại diện cao đến từ 47 quốc gia khác nhau và hoạt động trên khắp 63 tỉnh, thành trên cả nước, chiếm trên 20% tổng số nhà đầu tư nước ngoài đang hoạt động theo số liệu từ Tổng điều tra DN của Tổng cục thống kê năm 2009, có thể coi đây là cuộc điều tra lớn nhất và mang tính toàn diện nhất về khu vực DN này.

Đánh giá cao tiềm năng kinh doanh thuận lợi

Theo TS Edmund Malessky, Trưởng nhóm nghiên cứu PCI, nhìn chung, DN FDI tại VN đa phần có quy mô tương đối nhỏ, định hướng xuất khẩu và có tỷ suất lợi nhuận thấp, chủ yếu làm thầu phụ cho các công ty sản xuất đa quốc gia lớn hơn và do đó thường nằm trong khâu thấp nhất của chuỗi giá trị sản phẩm. Điều đáng nói là các DN FDI này tiêu thụ một lượng nhỏ hàng hóa và dịch vụ trung gian từ các nhà sản xuất nội địa. Điều này hàm ý hiệu ứng lan tỏa về năng lực công nghệ và kỹ năng quản lý bị hạn chế.

Đối với đa số các nhà đầu tư, lý do hấp dẫn họ tới VN là lợi thế chi phí sản xuất thấp do VN có nguồn lao động rẻ, môi trường chính trị ổn định, điều này cho phép các nhà đầu tư có thể lập kế hoạch chiến lược dài hạn vì họ tin rằng các chính sách sẽ được duy trì ổn định trong một thời gian dài.

Theo Báo cáo, trên 60% DN tham gia điều tra PCT-FDI nhận được các ưu đãi về thuế, chủ yếu dưới hình thức miễn thuế có thời hạn. Hình thức này có lợi cho các DN sản xuất, nông nghiệp và khai khoáng hơn là những nhà đầu tư trong lĩnh vực dịch vụ và xây dựng. Tuy nhiên, câu hỏi cho kết quả thú vị hơn cả lại là: DN FDI so sánh chính sách ưu đãi đầu tư giữa tỉnh đã được lựa chọn và các tỉnh khác như thế nào? 59% DN cho rằng chính sách ưu đãi tương đương nhau và 12% cho biết tỉnh mà họ lựa chọn đầu tư có đề xuất ưu đãi tốt hơn. Quan trọng hơn, 29% DN trả lời rằng một số tỉnh mà họ không lựa chọn đầu tư thực tế lại có chính sách ưu đãi hấp dẫn hơn. Tóm lại, đối với 88% DN đầu tư thì chính sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư không phải là yếu tố then chốt tác động đến quyết định đầu tư của họ. Nên lý giải điều này thế nào khi điều tra cho thấy các nhà đầu tư đánh giá ưu đãi về thuế có tầm quan trọng thứ 2 đứng sau yếu tố chi phí lao đông?

Câu trả lời là để cạnh tranh, các tỉnh cần đưa ra một số chính sách ưu đãi nhất định, nhưng không vì thế mà các nhà đầu tư lại quyết định lựa chọn tỉnh đó. Thay vào đó, họ sẵn lòng chấp nhận chính sách kém ưu đãi hơn nếu đó là một địa điểm có nhiều tiềm năng kinh doanh thuận lợi. Điều này cho thấy chính sách đối với nhiều tỉnh đã không thành công trong việc sử dụng các ưu đãi về thuế và đất đai như công cụ chính để thu hút đầu tư.

Chú trọng đầu tư giá trị gia tăng

Các nhà hoạch định chiến lược VN hiện đang tìm kiếm, thu hút nhà đầu tư nước ngoài mới cho giai đoạn phát triển kinh tế tiếp theo. Các nghiên cứu và phân tích kinh tế tại VN về vấn đề này dự đoán thế hệ các DN FDI tiếp theo cần sử dụng quy trình quản lý và công nghệ hiện đại, sử dụng yếu tố đầu vào trong nước là chủ yếu, đồng thời quan tâm hơn đến vấn đề bảo vệ môi trường và quan hệ lao động. VN không chỉ mong muốn các DN FDI tham gia vào sản xuất hàng hóa và dịch vụ có giá trị gia tăng cao mà còn đầu tư mới vào nhưng khâu giá trị gia tăng cao trong các chuỗi sản xuất để đóng góp nhiều hơn cho nền kinh tế thông qua các khoản thu ngân sách và mức lương cao. Thế hệ các DN FDI tiếp theo sẽ hoạt động trong những ngành có lợi nhuận cao, trong đó chất lượng lao động, hàng hóa trung gian và cơ sở hạ tầng có vai trò quan trọng hơn chi phí sản xuất.

Dù vậy, thời điểm này vẫn chưa nhiều nhà đầu tư thế hệ tiếp theo lựa chọn đầu tư vào VN. Tính trung bình trên cả nước, chỉ khoảng 5% DN FDI tham gia vào sản xuất công nghệ hiện đại, như các ngành công nghệ thông tin và truyền thông, khoảng 5% khác tham gia vào các dịch vụ khoa học, kỹ thuật và 3,5% tham gia ngành bảo hiểm hay tài chính có sử dụng kỹ năng quản lý hiện đại và đòi hỏi lao động có trình độ cao.

Nhóm nghiên cứu PCI cho rằng, các nhà hoạch định chính sách VN cần đề ra các chính sách nhằm thu hút đầu tư vào những ngành sản xuất và dịch vụ phức tạp có giá trị gia tăng cao hơn, những ngành có thể tăng trưởng và thịnh vượng cùng với sự phát triển VN. Điều này không có nghĩa là “chọn mặt gửi vàng” bằng các chiến lược ưu đãi có mục tiêu. Vì kinh nghiệm cho thấy các nước đang phát triển không thể triển khai chiến lược này hiệu quả, cuối cùng thường dẫn đến bóp méo thị trường trong nước. Ngoài ra, các nhà hoạch định chính sách VN không thể tiên liệu được những gì sắp diễn ra. Hướng đầu tư vào những ngành công nghệ cao của ngành hôm qua đã từng rất thành công có thể là một sự mạo hiểm.

Điều này cho thấy VN cần đặc biệt chú trọng tập trung phát triển nguồn lao động, cải thiện chất lượng cơ sở hạ tầng, chú trọng đến vấn đề bảo vệ quyền tài sản và thực thi hợp đồng- những điểm thu hút những nhà đầu tư tốt. Điều này sẽ đem lại những kết quả xứng đáng dù cho đó là thành phần kinh tế nào đi nữa.

Đồng thời, theo nhóm nghiên cứu PCI, VN cần nhìn nhận nghiêm túc về vấn đề có ít các DN FDI tìm nguồn cung ứng từ các DN nội địa VN. Điều gì khiến mối liên hệ này không hình thành? Một phần đơn giản có thể là do vấn đề thông tin. Các nhà sản xuất trong nước không nắm vững về các tiêu chuẩn chất lượng và công nghệ của các nhà đầu tư tương lai, trong khi đó các DN FDI tương lai có thể không hiểu hết về năng lực của nhà cung cấp nội địa. Vì vậy, cơ quan xúc tiến đầu tư cần cải thiện công tác tuyên truyền quảng bá những thông tin, tiêu chuẩn này đến các nhà sản xuất nội địa và đầu tư nâng cấp cơ sở dữ liệu cho dịch vụ tìm kiếm đối tác kinh doanh giữa các DN FDI và nhà cung cấp nội địa. Sự hiệu quả của các cơ quan xúc tiến đầu tư cấp tỉnh trong các dịch vụ tìm kiếm đối tác kinh doanh sẽ tạo ra các cụm liên kết kinh tế gắn kết hữu cơ khi các DN FDI giống nhau cùng tìm kiếm các nhà cung cấp sản phẩm đầu vào chất lượng cao trong chuỗi sản xuất của họ.

Đáng chú ý, ngay cả những nhà đầu tư quan tâm đến chi phí sản xuất thấp cũng bày tỏ mối quan ngại về chất lượng giáo dục phổ thông và đạo tạo nghề tại VN. Lao động chất lượng thấp đòi hỏi đầu tư nhiều ( 8% tổng chi phí kinh doanh), trong khi tỷ lệ lao động dịch chuyển lại cao, có nghĩa là các nhà đầu tư trồng cây không được hưởng trái ngọt từ những nỗ lực đào tạo của mình.

Để thu hút các nhà đầu tư công nghệ cao, VN cần nghiêm túc đánh giá hệ thống giáo dục phổ thông, đại học và đào tạo nghề trong nước,chú trọng đầu tư cho giáo dục đào tạo trong các ngành, lĩnh vực VN mong muốn phát triển hoặc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để có thể đáp ứng các yêu cầu của môi trường công nghệ mới. Đặc biệt, các nhà đầu tư công nghệ cao là nhóm có nhiều khả năng nhận thấy chất lượng lao động là một bất lợi cho chiến lược đầu tư của mình nhất. Việc Intel gặp khó khăn trong tuyển dụng lao động chất lượng cao để làm việc trong dây chuyển sản xuất công nghệ hiện đại là một minh chứng cho vấn đề này.

Ngoài ra, những vấn đề về hải quan, chi phí thực hiện quy định, cơ sở hạ tầng, chi phí không chính thức…. cũng là những vấn đề mà các nhà hoạch định chính sách cần xem xét lại để có thể có môi trường cạnh tranh hấp dẫn hơn.

Quỳnh Chi