01:06:06 | 20/6/2011
Bên lề cuộc hội thảo “Chính sách thương mại nhằm phát triển bền vững ở Việt Nam thời kỳ 2011 – 2020”, do Viện Nghiên cứu Thương mại tổ chức vừa qua, phóng viên đã có cuộc trao đổi với Thứ trưởng thường trực Bộ Công thương Lê Danh Vĩnh xung quanh tình hình xuất, nhập khẩu của Việt Nam.
Thứ trưởng nhìn nhận thế nào về vị trí, vai trò của xuất, nhập khẩu đối với phát triển kinh tế của Việt Nam ?
Theo tôi, nhịp độ tăng trưởng của họat động xuất nhập khẩu bình quân hàng năm luôn ở mức cao, đạt 19% (giai đoạn 2001 – 2010). Ngoài ra, quy mô xuất khẩu cũng tăng từ 15 tỷ USD năm 2001 lên 72,19 tỷ năm 2010 tăng 4,7 lần. Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam trên GDP tăng 46% năm 2001 lên 70% năm 2010. Một điều đáng mừng khác là mặt hàng xuất khẩu của VN ngày càng phong phú và đa dạng. Nếu như năm 2004, Việt Nam mới chỉ có 6 nhóm hàng đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD thì đến hết năm 2010 đã có 18 nhóm hàng, trong đó 10 nhóm hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD và tám nhóm hàng trên 2 tỷ USD. Hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam đã có mặt trên thị trường của 220 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới.
Trong 10 năm qua, họat động xuất khẩu của VN đã đóng góp tỷ trọng lớn nhất vào tăng trưởng kinh tế bên cạnh các yếu tố tiêu dùng, đầu tư và nhập khẩu. Một điểm đặc biệt là, tăng trưởng xuất khẩu cao và tương đối ổn định trong nhiều năm qua đã góp phần ổn định kinh tế vi mô như hạn chế nhập siêu, cân bằng cán cân thanh toán quốc tế, tăng dự trữ ngoại tệ. Ngoài ra, chính sách khuyến khích xuất khẩu trong giai đoạn vừa qua cũng đã góp phần vào công tác bảo vệ môi trường, bảo vệ và phát triển hệ sinh thái. Khả năng đáp ứng các quy định về môi trường và an toàn thực phẩm của nhiều nhóm hàng ngày càng được nâng cao.
Tuy nhiên, thực tế cũng có nhiều ý kiến cho rằng ngoài những cái “được” thì hoạt động xuất nhập khẩu của VN vẫn còn một số điểm hạn chế cố hữu, Thứ trưởng nghĩ sao về quan điểm này ?
Thực tế trên là điều chúng ta phải thừa nhận, bởi ngoài những mặt mạnh, xuất khẩu của Việt Nam trong giai đoạn vừa qua cũng có những bước phát triển chưa thật sự bền vững. Theo đó, giá trị gia tăng của hàng hóa xuất khẩu còn thấp do chủ yếu dựa vào khai thác các yếu tố về điều kiện tự nhiên và nguồn lao động rẻ. Chính sách phát triển xuất khẩu trong thời gian qua còn quá chú trọng về số lượng, chưa thực sự quan tâm đến chất lượng và hiệu quả xuất khẩu. VN chưa khai thác hiệu quả lợi thế cạnh tranh xuất khẩu dựa vào công nghệ, trình độ lao động quản lý… để tạo ra nhóm hàng hóa xuất khẩu có khả năng cạnh tranh cao, có khả năng tham gia vào khâu tạo ra giá trị gia tăng cao trong chuỗi giá trị toàn cầu. Bên cạnh đó, việc mở rộng xuất khẩu cũng đang có nguy cơ làm cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, suy giảm đa dạng sinh học. Nhiều vấn đề về xã hội cũng nẩy sinh từ hoạt động xuất khẩu mà VN chưa có cơ chế, chính sách để giải quyết hiệu quả. Vấn đề chia sẻ lợi ích từ họat động xuất khẩu cũng chưa thật bình đẳng, đặc biệt là lợi ích thu được từ các nhóm hàng có nguồn gốc thiên nhiên…
Trong câu chuyện xuất, nhập khẩu thì không thể không nhắc đến khu vực thương mại tự do (FTA), đó là động lực và cũng là mối quan hệ tất yếu, Thứ trưởng có bình luận gì về điều này ?
Thực chất, đây là xu thế liên kết kinh tế trong khu vực và trên phạm vi rộng hơn của các nền kinh tế trên thế giới. Ngoài việc loại bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế quan, các FTA ngày nay thường đưa ra các cam kết tự do trong nhiều lĩnh vực như thương mại dịch vụ, đầu tư, thậm chí sẵn sàng hợp tác trên các lĩnh vực phi truyền thống trong thương mại như tiêu chuẩn lao động, môi trường. Việt Nam cũng là quốc gia tiếp cận và tham dự FTA từ khá sớm. Ngoài ra, với Việt Nam các FTA không chỉ được thực hiện trong khuôn khổ hợp tác ASEAN, mà VN cũng đã mạnh dạn và chủ động lựa chọn các đối tác phù hợp và có lợi cho chiến lược hội nhập của đất nước. Ngoài những bạn hàng cũ, gần đây Việt Nam cũng đang xúc tiến đàm phán FTA với Chi Lê, tham gia đàm phán với tư cách thành viên chính thức của Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Các FTA ASEAN +3 (với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, ASEAN+6 (thêm Ấn Độ, Ôxtrâylia và Niuzilân, cũng như FTA song phương với Liên bang Nga, Liên minh châu Âu và Hàn Quốc cũng đang được nghiêm túc xem xét.
Vậy trong thời gian tới, Việt Nam cần làm gì để làm tốt hơn nhiệm vụ xuất nhập khẩu, một đòn bẩy quan trọng bậc nhất để thúc đẩy nền kinh tế phát triển, thưa Thứ trưởng ?
Đây là một mục tiêu dài hạn và phức tạp, VN nên chia thành các giai đoạn nhỏ để định hướng tốt hơn. Cụ thể, trong giai đoạn 2011 – 2015, cần tập trung phát triển xuất khẩu những mặt hàng có lợi thế về điều kiện tự nhiên, và lao động giá rẻ như thủy sản, nông sản, dệt may, điện tử và các sản phẩm chế tác công nghệ trung bình… Giai đoạn 2016-2020 tập trung phát triển các mặt hàng công nghệ mới có giá trị gia tăng cao, trên cơ sở thu hút mạnh các nguồn đầu tư trong và ngoài nước. Chú trọng phát triển các mặt hàng xuất khẩu thân thiện môi trường hạn chế sử dụng năng lượng và tài nguyên. Ngoài ra, cần tập trung phát triển thị trường cho các sản phẩm có sức cạnh tranh lớn, có giá trị gia tăng cao hoặc nhóm sản phẩm có tỷ trọng kim ngạch lớn./.
Xin cám ơn ông!
Anh Phương