21:35:03 | 19/5/2022
Để có thể hiện thực hóa khát vọng trở thành quốc gia thu nhập cao vào năm 2045, quốc gia cần chuyển đổi mô hình tăng trưởng và cải thiện rõ rệt năng lực của Chính phủ trong phối hợp và triển khai những cải cách chính sách kinh tế và đầu tư công.
Đây là nhận định của Ngân hàng thế giới trong Báo cáo cập nhật đánh giá quốc gia của nhóm Ngân hàng Thế giới với chủ đề: “Để Việt Nam tươi sắc đào xuân? Cải cách thể chế hướng tới thực thi hiệu quả” mới được công bố vừa qua.
Theo báo cáo, mô hình tăng trưởng truyền thống của Việt Nam đang phải đối mặt với những thách thức lớn do đại dịch COVID-19, toàn cầu hóa chững lại, và nguy cơ quốc gia ngày càng dễ tổn thương đối với những cú sốc bên ngoài, đặc biệt với rủi ro khí hậu. Sau khi xác định một loạt những ứng phó chính sách và ưu tiên cải cách, phần nhiều trong đó không phải là mới.
Theo bà Carolyn Turk, Giám đốc Quốc gia Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam, GDP theo đầu người của Việt Nam đã tăng gấp năm lần sau ba thập kỷ qua, trong khi thể chế của quốc gia chưa thích ứng với tốc độ thay đổi đó kể từ thời kỳ Đổi mới vào cuối thập kỷ 1980.Cải cách thể chế đồng bộ có thể giúp quốc gia tránh bẫy thu nhập trung bình qua nâng cao hiệu quả ứng phó với những thách thức mới và phức tạp phát sinh trong nước và trên toàn cầu.
Việt Nam đã triển khai thực thi những ưu tiên phát triển với kết quả chưa được đồng đều trong 35 năm qua. Bởi vậy, theo WB, Việt Nam cần có cách tiếp cận cụ thể về cải cách thể chế theo một mô hình phương pháp luận đơn giản nhưng trực quan. Điểm khởi đầu là thể chế cần được thiết kế sao cho đảm bảo thực thi được những ưu tiên phát triển của quốc gia với hiệu suất và hiệu quả cao nhất. Thể chế cần thích ứng cho phù hợp với những thách thức phát triển mới và phức tạp đang phát sinh trong bối cảnh trong nước và thế giới đang thay đổi nhanh nhóng. Đáng tiếc là kết quả thực thi của Việt Nam - được xác định qua khác biệt giữa khát vọng và thực tế triển khai - chưa được đồng đều trong thập kỷ qua. Mặc dù đã triển khai rất hiệu quả những ưu tiên về mở cửa thương mại, chuyển đổi số và hòa nhập xã hội, nhưng Việt Nam chưa đạt được nhiều tiến triển trong việc thực thi những ưu tiên khác như tăng trưởng xanh, tài chính toàn diện và nâng cấp hạ tầng. Bên cạnh đó, do chuyển đổi từ nền kinh tế thu nhập trung bình thấp sang thu nhập trung bình cao khó hơn so với chuyển đổi từ thu nhập thấp sang thu nhập trung bình, nên kết quả triển khai tổng thể cần phải lớn hơn gấp ba lần so với những gì đạt được trong giai đoạn từ 2010 đến 2020 để Việt Nam đạt được những khát vọng phát triển của mình. Nâng cao tính thích ứng và hiện đại hóa thể chế hiện hành là ưu tiên quan trọng được đề ra trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội được thông qua tại Đại hội Đảng vào tháng 02/2021.
Báo cáo cho biết, có năm cải cách thể chế quan trọng cần triển khai để cải thiện kết quả thực thi của Việt Nam. Việt Nam cần tạo nền tảng thể chế vững chắc cho từng ưu tiên phát triển nhằm biến những ưu tiên phát triển đó thành hành động cụ thể; hài hòa các quy trình, thủ tục hành chính để nâng cao hiệu quả của chính quyền các cấp; sử dụng các công cụ thị trường để tạo động lực cho các bên liên quan trong khu vực nhà nước và tư nhân; thực thi hiệu lực các quy định và quy tắc nhằm nâng cao động lực, lòng tin và công bằng; áp dụng các quy trình có sự tham gia để đảm bảo nâng cao minh bạch và trách nhiệm giải trình.
Qua triển khai một cách có hệ thống năm cải cách thể chế nêu trên, Việt Nam sẽ tạo nền tảng cho tầm nhìn phát triển kinh tế, tăng cường năng lực để triển khai những chiến lược của quốc gia, nâng cao động lực để đem lại kết quả cao hơn trong một số lĩnh vực quan trọng - tăng trưởng xanh, chuyển đổi số, tài chính toàn diện, an sinh xã hội và nâng cấp hạ tầng - qua đó giúp quốc gia hoàn thành các mục tiêu phát triển của mình.
“Chìa khóa để đem lại thành công phát triển trong tương lai của Việt Nam chính là thể chế mang tính thích ứng để có thể triển khai thực hiện những ưu tiên phát triển mới và ngày càng phức tạp”, đại diện nhóm tác giả báo cáo chia sẻ. Ví dụ hiện nay tăng trưởng xanh đang thiếu một nền tảng thể chế rõ ràng; một số chiến lược và kế hoạch được xây dựng song song nhưng chưa hẳn đã có sự đồng bộ với nhau; mối quan hệ giữa trung ương và địa phương còn chưa rõ ràng. Tín hiệu thị trường cũng không rõ ràng khi giá tài nguyên được trợ giá đang khuyến khích những hành vi thiếu trách nhiệm, trong khi các văn bản quy phạm pháp luật không phải lúc nào cũng có hiệu lực thực thi. Kết hợp lại, những bất cập đó đang là rào cản đối với tiến trình ra quyết định và triển khai hiệu quả nghị trình xanh của quốc gia.
Anh Mai