01:53:57 | 15/4/2011
Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam 3 tháng đầu năm đã có mức tăng trưởng đột biến, cao nhất trong gần 20 năm qua. Nguyên nhân là do các mặt hàng xuất khẩu được lợi về giá và tỷ giá cũng như các biện pháp điều hành xuất khẩu đã phát huy hiệu quả. Tuy nhiên, tình hình cung ứng điện, khả năng huy động vốn khó khăn cũng là những vấn đề gây ảnh hưởng đến xuất khẩu thời gian tới. Để tìm hiểu kỹ hơn về vấn đề này, phóng viên Tạp chí Vietnam Business Forum đã có cuộc phỏng vấn Ông Nguyễn Thành Biên - Thứ trưởng Bộ Công Thương.
Ông có nhận định gì về tình hình tăng trưởng xuất khẩu thời gian qua và dự báo xu hướng xuất khẩu cho những tháng tiếp theo?
Từ cuối năm 2010 và quý I năm 2011, kim ngạch xuất khẩu đã tăng cao, có những tháng xuất khẩu tăng trưởng tới hơn 40%. Ba tháng đầu năm kim ngạch cũng đã tăng 33,7% so với cùng kỳ năm 2010. Sự tăng trưởng ấn tượng như vậy là do yếu tố về giá, đặc biệt là giá các mặt hàng nông sản tăng cao đã khiến kim ngạch tăng tỷ lệ thuận mặc dù khối lượng xuất khẩu chỉ tăng không đáng kể. Chính yếu tố tăng giá đã đóng góp hơn 50% tổng kim ngạch XK năm 2010, dự báo nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam tiếp tục có được sự thuận lợi về giá và thị trường đến cuối năm nay.
Mặt hàng nguyên liệu thô như than đá, khoáng sản, dầu thô xuất khẩu sụt giảm mạnh về lượng nhưng kim ngạch lại tăng hơn do yếu tố tăng giá trên thị trường. Tuy nhiên, một số mặt hàng công nghiệp cũng tăng cao, bù đắp lại phần giảm giá trị xuất khẩu của nhóm nhiên liệu khoáng sản. Mặt hàng có mức xuất khẩu đột biến năm 2010 là sản phẩm sắt thép. Năm 2009, mặt hàng này xuất khẩu chưa đầy 500 triệu USD nhưng đến năm 2010 đã xuất được trên 1 tỷ USD.
Đối với một số mặt hàng nông sản, năm ngoái, giá cà phê rất thấp, chỉ 22.000 đồng/kg, đến thời điểm này, giá thị trường trong nước 45-47.000/kg, giá thị trường thế giới là xấp xỉ 2.000 USD/tấn. Ngoài cà phê, giá hạt tiêu, cao su cũng tăng đến 70%, đóng góp cho kim ngạch xuất khẩu cao su quý 1 tăng gấp đôi so với cùng kỳ năm ngoái.
Xuất khẩu cao hơn nhiều so với chỉ tiêu Quốc hội đề ra là tăng 10% cũng còn do kinh tế thế giới tiếp tục đi lên, nhu cầu hàng hóa tăng cao và đặc biệt là do chênh lệch tỷ giá hối đoái. Những đợt điều chỉnh tỷ giá giữa đồng Việt Nam và USD cũng như các ngoại tệ khác trong thời gian qua đã ít nhiều có tác dụng đối với những chính sách hỗ trợ xuất khẩu khi mà VN buộc phải điều chỉnh tỷ giá cho sát với thị trường từ 19.000-19.500 cho đến gần 21.000 đồng/USD. Tuy nhiên, từ nay đến cuối năm 2011, sẽ không nên kỳ vọng những thay đổi về tỷ giá sẽ có tác động tốt đối với xuất khẩu.
Một trong số những giải pháp thúc đẩy xuất khẩu mới được áp dụng năm qua là thu mua tạm trữ nông sản. Ông có đánh giá gì về hiệu quả của giải pháp này?
Điều mà chúng ta thấy rõ nhất, tác động mạnh nhất đến mặt hàng này là chính sách mua tạm trữ mà điển hình là mặt hàng cà phê cho các doanh nghiệp và các địa phương. Chúng ta thực hiện quá trình thu mua trong vòng 3 tháng với chỉ tiêu đặt ra là 200 ngàn tấn nhưng chỉ mua được 70 ngàn tấn. Tuy nhiên, lượng dự trữ này cũng đã đóng góp vào việc nâng giá cà phê. Từ khi VN thực hiện chủ trương đó cộng hưởng thêm yếu tố nguồn cung trên thế giới giảm thì giá cà phê liên tục tăng.
Mặc dù thời gian gần đây, giá cà phê đã có điều chỉnh nhưng sự điều chỉnh đó là đương nhiên vì không có một mặt hàng nào cứ tăng giá mãi được. Tuy nhiên, kết luận rút ra ở đây là lần đầu tiên, Việt Nam tham gia một cách chủ động vào thị trường thế giới để điều tiết giá với vai trò là một trong những nước xuất khẩu lớn nhất. Khi VN tham gia vào quá trình điều tiết giá một cách chủ động thì khiến giá trị hàng hoá tăng cao kéo theo cả khu vực sản xuất cũng được hưởng lợi. Đây là giải pháp điển hình trong công tác điều hành xuất nhập khẩu thời gian qua.
Tuy nhiên, lợi ích do việc giá cà phê tăng cao chưa được trọn vẹn, vào thời điểm cuối năm ngoái, khi giá cà phê tăng tương đối cao cần một lượng tiền rất lớn để thu mua thì rất tiếc,các doanh nghiệp Việt Nam lại không có tiền, hoặc không vay được tiền do lãi suất quá cao. Trong khi đó các doanh nghiệp nước ngoài có tiềm lực dồi dào đã triển khai mua một số lượng rất lớn. Có thể tính được, lượng cà phê mà các doanh nghiệp nước ngoài thu mua của nông dân lớn hơn nhiều so với lượng mà các công ty trong nước nắm giữ. Đến giờ, khi giá cà phê lên đến đỉnh điểm thì người hưởng lợi nhiều nhất là các doanh nghiệp nước ngoài chứ không phải là nông dân hay doanh nghiệp trong nước.
Ông vừa nói đến vấn đề lãi suất tăng cao, vậy việc huy động vốn của các doanh nghiệp xuất khẩu thời gian qua có ảnh hưởng gì không?
Điều chúng tôi lo lắng là một số biến động kinh tế của Việt Nam có thể tác động trực tiếp đối với xuất khẩu như khó khăn về lạm phát, lãi suất. Hiện mặt bằng lãi suất cho vay bị đẩy lên quá cao, thậm chí trên mức 20%. Với mục tiêu kiềm chế lạm phát, các biện pháp thắt chặt tiền tệ, tài khóa sẽ được thực hiện quyết liệt, do đó, lãi suất sẽ tiếp tục cao trong quý 1, 2 năm 2011 và có thể giảm nhẹ trong quý 3, 4.
Đặc biệt, lãi suất cho vay cao hơn so với mặt bằng trong khu vực và trên thế giới làm giảm đáng kể sức cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu.
Lãi suất cao khiến huy động vốn khó khăn, hoạt động sản xuất đầu tư của các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh hàng xuất khẩu sụt giảm, hơn nữa, sức cạnh tranh của các mặt hàng xuất khẩu cũng giảm theo vì chi phí lãi vay rất cao buộc các doanh nghiệp hạch toán chi phí vào giá thành.
Tôi đã nghe các doanh nghiệp, các hiệp hội ngành hàng kêu ca rằng trong quá trình chào hàng cho một số đối tác nước ngoài, vì giá thành tăng nên một số đối tác không chấp nhận ký tiếp hợp đồng. Vì vậy, đang có hiện tượng một số đơn hàng đã dịch chuyển sang các thị trường có giá thấp hơn trong khu vực nơi mà đồng vốn được huy động một cách dễ dàng hơn đặc biệt là là lãi suất hợp lý hơn.
Bộ Công Thương đã có những giải pháp gì để các doanh nghiệp xuất khẩu đối phó với tình hình cung ứng điện được dự báo sẽ rất thiếu thốn trong thời gian tới?
Liên quan đến những chi phí đầu vào như cung ứng điện. Năm 2010, thiếu thốn về điện đã ảnh hưởng không nhỏ đến các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp xuất khẩu nói riêng. Bước vào năm 2011, về cơ bản chúng ta đã điều hành để đảm bảo đủ điện cho sản xuất, đủ điện cho tiêu dùng. Tuy nhiên, mùa khô sắp tới sẽ là thử thách lớn vì nhu cầu dùng điện rất nhiều. Trước tình hình đó, Bộ Công Thương đã có nỗ lực rất lớn trong việc phối hợp với Tập đoàn Điện lực EVN và các doanh nghiệp sản xuất điện, phối hợp với các địa phương trong việc phân bổ nguồn điện phục vụ như cầu sinh hoạt cũng như nhu cầu sản xuất, đảm bảo điều tiết hợp lý.
Theo ông, những giải pháp nào là hợp lý nhất trong thời điểm này để hạn chế những tác động xấu ảnh hưởng đến xuất khẩu?
Trong thời gian tới, Bộ Công Thương sẽ thực hiện một số biện pháp để thúc đẩy sản xuất, kinh doanh và xuất khẩu như Trình thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định về chính sách phát triển một số ngành công nghiệp hỗ trợ. Bên cạnh đó, Bộ sẽ tiếp tục phối hợp với các Bộ, ngành địa phương triển khai các biện pháp đã và đang triển khai để đẩy mạnh xuất khẩu và kiềm chế nhập siêu; Thực hiện nội dung các Hiệp định khu vực mậu dịch tự so (FTA) mà Việt Nam đã tham gia ký kết, trong đó làm rõ các lợi thế cắt giảm thuế quan qua từng năm đối với từng nhóm hàng mà Việt nam có thể thụ hưởng, qua đó đẩy mạnh thâm nhập vào thị trường các nước có tham gia FTA với Việt Nam, đẩy mạnh xuất khẩu, giảm nhập siêu. Đặc biêt, Bộ sẽ nghiên cứu và xây dựng Đề án thành lập Trung tâm giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu, theo đó: xây dựng trung tâm theo mô hình tập trung các cơ quan quản lý như Hải quan, kiểm dịch, giám định... và các tổ chức cung ứng dịch vụ xuất nhập khẩu để tạo thành một trung tâm, một cửa với mục tiêu tạo thuận lợi cho xuất nhập khẩu; v.v...