Cần tập trung xúc tiến thương mại tại các thị trường mới

00:24:24 | 4/4/2011


Ông Alain Chevalier, cố vấn Trung tâm thương mại quốc tế của Liên Hợp Quốc (ITC)

Một số thị trường nhập khẩu lớn của Việt Nam đang gặp biến động như động đất ở Nhật, chiến sự ở Libi và xung đột tại một số nước Bắc Phi, tình trạng chắt thặt chi tiêu vì khủng hoảng nợ công ở một số nước EU. Ảnh hưởng từ các thị trường này sẽ tác động mạnh đến tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian tới. Tạp chí Vietnam Business Forum đã có cuộc phỏng vấn với ông Alain Chevalier, cố vấn Trung tâm thương mại quốc tế của Liên Hợp Quốc (ITC) về vấn đề này.

Mặc dù kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam tăng rất mạnh trong những tháng đầu năm, tuy nhiên tình hình bất ổn ở một số thị trường nhập khẩu lớn có thể ảnh hưởng đến tăng trưởng xuất khẩu. Theo ông, biện pháp nào để giảm thiểu những ảnh hưởng này?

Việc cần tập trung hiện nay đối với Việt Nam là xúc tiến xuất khẩu vì Việt Nam đang thâm hụt thương mại. Với điều kiện tình hình tại một số khu vực trên thế giới không thuận lợi như hiện nay, Việt Nam nên đưa hàng hóa của mình sang một số thị trường khác, mới hơn, tiềm năng hơn, áp lực cạnh tranh thấp hơn như Nam Á, Châu Phi, Trung Đông…

Các doanh nghiệp Việt Nam nên tận dụng một số lợi thế của mình như Việt Nam là thành viên của cộng đồng các quốc gia nói tiếng Pháp (La Francophonie), đây là lợi thế lớn để các doanh nghiệp có cơ hội kinh doanh với các nước thuộc cộng đồng Pháp ngữ tại 5 khu vực: Đông Dương với Trung Phi - Nam Phi; Đông Âu - Trung Âu và Tây Âu. Hằng năm, Cộng đồng Pháp ngữ có tài trợ cho một số hoạt động thương mại với một số nước nước Tây và Trung Phi nhưng tôi biết Bộ công Thương Việt Nam cũng phát triển thương mại không chỉ khu vực này mà tất cả các nước trên thị trường châu Phi. Trong thời gian qua, xuất khẩu Việt Nam vào các thị trường mới đã có sự tăng trưởng đáng kể nhưng vẫn còn khiêm tốn hơn nữa, Việt Nam thường xuất siêu vào các thị trường này. Việc tăng cường xuất khẩu sang thị trường Trung Đông, châu Phi không chỉ giải được bài toán khó về biến động tại các thị trường truyền thống, mà còn gỉam đáng kể tỷ lệ thâm hụt thương mại tại Việt Nam.

Ông có thể đánh giá tiềm năng của các thị trường mới này?

Trước khi làm cố vấn thương mại tại Việt Nam, tôi đã công tác nhiều năm ở một số nước Tây Phi và Trung Phi. Liên minh kinh tế tiền tệ Tây Phi (UEMOA) gồm có 8 quốc gia đều nói tiếng Pháp còn Cộng đồng kinh tế và tiền tệ Trung Phi (CEMAC) có 6 quốc gia có sử dụng tiếng Pháp, Bồ Đào Nha… tỷ lệ tăng trưởng khoảng 4%/năm. Luật kinh doanh của các quốc gia thành viên ở khu vực này rất thống nhất và hài hòa. Hai khu vực kinh tế này là vùng tự do mậu dịch với biểu thuế xuất nhập chung giao động từ 5-30%.

Chỉ tính riêng CEMAC, mỗi năm thị trường này nhập khẩu 19 tỷ euro hàng hóa các loại. Hơn nữa, các sản phẩm khu vực này cần lại là những hàng hóa mà Việt Nam có thể mạnh xuất khẩu như hàng tiêu dùng, lương thực thực phẩm: gạo, lúa mì, thức ăn, quần áo, giày dép, máy móc, thiết bị nông nghiệp, v.v. CEMACcó thể nhập khẩu đến 1 tỷ USD giá trị hàng hóa của Việt Nam mỗi năm.

Về xuất khẩu, CEMAC có thể bán cho Việt Nam những mặt hàng như dầu thô và dầu tinh lọc, gỗ, bông, khoáng sản (sắt, măng-gan, nhôm...) với tiềm năng xuất khẩu có thể đạt 1 tỷ USD.

Trong những năm qua, trao đổi thương mại giữa Việt Nam và CEMAC đã có bước phát triển khá. Năm 2010, kim ngạch XK của Việt Nam sang khu vực này đạt khoảng 150 triệu USD và nhập khẩu 100 triệu USD.

Ông đánh giá thế nào về các dự án xúc tiến thương mại tại Việt Nam?

Hoạt động xúc tiến thương mại thời gian qua đã được Chính phủ Việt Nam mà cụ thể là Bộ Công Thương quan tâm đẩy mạnh và thu được nhiều kết quả khả quan. Tuy nhiên, phần lớn các hoạt động xúc tiến thương mại vẫn chỉ dừng lại ở hình thức tổ chức các hội chợ ra nước ngoài. Tôi cho rằng, xúc tiến thương mại không phải là tổ chức hội chợ bằng cách là lo hậu cần, phương tiện vận tải, khách sạn… mà cần tư vấn cho doanh nghiệp nên đến thị trường nào, thị trường đó cần gì, các doanh nghiệp được hỗ trợ về pháp lý, thuế suất những gì…

Tôi thấy rằng 90% các doanh nghiệp xuất khẩu tại Việt Nam đều là các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Các doanh nghiệp này không thể tự xuất khẩu được, họ cần liên kết với nhau. Các địa phương và cơ quan chuyên trách cần tập trung họ lại dưới hình thức xây dựng chương trình hợp tác xuất khẩu giữa các doanh nghiệp với nhau, để tập hợp sức mạnh của các doanh nghiệp này lại.

Từ kinh nghiệm quốc tế của tôi, thì xúc tiến thương mại tại Việt Nam chưa đáp ứng đủ các yêu cầu của doanh nghiệp. Chúng ta phải thường xuyên cập nhật thông tin về nhu cầu của doanh nghiệp. Muốn làm được phải có sự liên kết, phối hợp với các tổ chức khác của địa phương để có thể hỗ trợ doanh nghiệp.

Hoạt động xúc tiến thương mại vào những thị trường mới của Việt Nam vẫn cần phải đẩy mạnh hơn nữa cho phù hợp với tiềm năng thương mại của hai bên. Ví dụ, chưa có có ngân hàng nào của Việt Nam hoạt động tại châu Phi nên việc thanh toán và đảm bảo hàng hóa gặp nhiều khó khăn. Doanh nghiệp Việt Nam và châu Phi chưa chủ động khảo sát thị trường và trao đổi thông tin để tìm kiếm cơ hội hợp tác bền vững.

Hơn nữa, các doanh nghiệp cần đặc biệt chú trọng vào khâu đánh giá thị trường, tìm hiểu đối tác và đây là biện pháp đầu tiên có thể loại bỏ nhiều rủi ro kinh doanh.

Ông có lời khuyên gì để các hoạt động xúc tiến thương mại tại Việt Nam hiệu quả hơn?

Đầu tiên là tự thân các doanh nghiệp phải xóa bỏ rào cản về tâm lý. Các chủ doanh nghiệp luôn luôn cho rằng thị trường lớn như Mỹ, EU, Nhật… mới là nơi họ tiêu thụ được nhiều sản phẩm nhất. Trong khi đó, yêu cầu về chất lượng sản phẩm của các thị trường này rất cao, nhiều rào cản thương mại được áp dụng, áp lực cạnh tranh với Trung Quốc, Indonexia, Thái Lan… không hề nhỏ. Có lần các doanh nghiệp Việt Nam hỏi tôi về nguồn cung điều, tôi có chỉ cho họ rằng thị trường Guinea-Bissau có thể đáp ứng nhu cầu của họ. Thế nhưng họ lại lắc đầu bảo “xa quá”. Tuy nhiên, chúng tôi đã cố gắng tạo điều kiện để họ có thể gặp mặt và hiện giờ các doanh nghiệp tại Việt Nam đã giao dịch được 200 ngàn tấn hạt điều với Guinea-Bissau mỗi năm.

Chính phủ cũng nên tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xích lại gần nhau bằng cách xây dựng những tổng công ty thương mại làm đầu mối để doanh nghiệp hai bên có thể liên kết. Việt Nam cũng nên tổ chức các diễn đàn định kỳ để giao lưu giữa các doanh nghiệp để nắm bắt xu hướng xuất khẩu mới.

Nên vận động các doanh nghiệp vận tải của Việt Nam để cung cấp dịch vụ vận tải tại các thị trường mới. Hiện nay, có 2 hãng hàng không bay từ châu Phi đó là Etopia Airlines và Kenia Airlines, chúng tôi hy vọng trong tương lai gần Vietnam Airlines có thể mở các đường bay trực tiếp đến một số nước ở khu vực này.

Cao hơn nữa, Chính phủ Việt Nam nên tăng cường ký kết các thỏa thuận hợp tác giữa các nước cũng như tạo điều kiện thúc đẩy sự hợp tác liên ngân hàng giữa các ngân hàng của Việt Nam và các ngân hàng tại thị trường mới như ở châu Phi, Trung Đông để thuận lợi về giao dịch thanh toán.

Hương Ly