15:41:59 | 17/8/2011
Theo Dự thảo Thông tư quy định mức thuế suất trong Biểu thuế xuất khẩu đối với một số mặt hàng cao su mới được Bộ Tài chính thông qua thì các mặt hàng cao su thuộc nhóm 4001 và 4002 sẽ tăng từ 3% lên 5%. Tuy nhiên, với mức áp dụng thuế suất này đã khiến DN trong ngành lo ngại bất hợp lý.
Theo số liệu thống kê của Hiệp hội Cao su Việt Nam, trong 7 tháng đầu năm xuất khẩu cao su đạt 340.000 tấn với kim ngạch 1,5 tỉ đô la, tăng gần 70% về kim ngạch so với cùng kỳ năm 2010. Giá xuất khẩu bình quân của mặt hàng này cũng tăng 60% so với cùng kỳ.
Thuế phải khuyến khích phát triển
Dưới góc độ doanh nghiệp, ông Lê Văn Trí- Phó Tổng giám đốc Công ty Công nghiệp cao su miền Nam (Casumia) phân tích, tham khảo chính sách thuế của một số nước, tùy theo chiến lược phát triển và đặc điểm kinh tế của từng nước, thuế xuất khẩu (XK) cao su thiên nhiên được áp dụng khác nhau. Cụ thể như Indonesia, nước có diện tích trồng cao su lớn nhất thế giới và XK đứng hàng thứ 2 thế giới, đang áp dụng thuế suất bằng 0 đối với cao su thiên nhiên XK. Malaysia, nước XK cao su thiên nhiên lớn thứ 3 thế giới đang áp dụng mức cố định 13,92 cent/kg (khoảng 1% giá XK), trong đó 4 cent/kg dành cho quỹ nghiên cứu và 9,92/ cent/kg để hỗ trợ nông dân tái canh.

Với Thái Lan, nước đứng đầu thế giới về XK cao su thiên nhiên, sản lượng 3,25 triệu tấn/năm cũng chỉ áp dụng mức thuế xuất khẩu 1,4 Baht/kg. Từ tháng 10/2010, Thái Lan có tăng thuế XK với mức mới là 2 baht/kg. Trong đó có quy định rõ, nếu giá dưới 80 Baht/kg tương đương thuế khoảng 2,5%, nếu giá XK từ 80-100 baht/kg thì mức thuế khoảng 3%, còn nếu giá xuất trên 100 baht/kg thì thuế khoảng 5%. Thế nhưng, theo ông Trí, mục đích tăng thuế của Thái Lan là nhằm tăng Quỹ quốc gia dành cho ngành cao su, bao gồm kinh phí hỗ trợ cho nông dân khi tái canh và hỗ trợ khi giá sụt giảm dưới mức giá sàn, đồng thời khuyến khích các DN nước ngoài đầu tư chế biến sản phẩm cao su tại Thái Lan với nguồn nguyên liệu rẻ hơn.
Còn đối với Việt Nam, do Chính phủ chủ trương khuyến khích sản xuất, XK nên những năm gần đây, diện tích và sản lượng cao su XK đều tăng mạnh. Hiện, Việt Nam là nước sản xuất đứng thứ 5 và XK đứng thứ 4 trên thế giới. Sản lượng năm 2010 là 754.500 tấn, diện tích 740.000 ha, dự kiến năm 2011 là 780 ngàn tấn và 770.000ha.
Trong công văn số 2215/BNN- CB do Thứ trưởng Bùi Bá Bổng ký gửi Bộ Tài chính mới đây, Bộ NN& PPTNT cho rằng, tại quyết định số 750/QĐ- TTg phê duyệt Quy hoạch phát triển cao su đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2020, Thủ tướng Chính phủ đã xác định chỉ tiêu phát triển đến năm 2015 là diện tích cao su phải đạt 800.000 ha, sản lượng mủ đạt 1,1 triệu tấn. Theo đó, sẽ có nhiều chính sách kèm theo để đẩy mạnh phát triển ngành cao su, trong đó có chính sách không thu thuế xuất khẩu.
Hơn nữa, hiện nay, mủ cao su sơ chế của Việt Nam sản xuất ra chủ yếu vẫn là để xuất khẩu. Các nhà máy chế biến cao su trong nước mới chỉ tiêu thụ khoảng 18% sản lượng của cả nước. Do vậy, Bộ NN& PPTNT đề nghị Bộ Tài chính không thu thuế XK đối với các mặt hàng cao su thiên nhiên mã HS 4001 có giấy chứng nhận kiểm phẩm từ các phòng kiểm phẩm đạt cấp quốc gia, vì đây là mặt hàng khuyến khích xuất khẩu.
Cũng theo các chuyên gia ngành, với tình hình nhiều biến động hiện nay, chưa nên thu thuế XK cao su thiên nhiên để khuyến khích phát triển diện tích, gia tăng sản lượng. Bởi lẽ, sau khủng hoảng năm 2008, ngành cao su liên tiếp gặp khó khăn, lãi suất tăng cao, ảnh hưởng không nhỏ đến phát triển của ngành. Đây cũng là thời điểm đang vào mùa thu hoạch chính trong năm, song giá cao su có biến động bất thường. Việc áp dụng thuế suất 5% đối với XK cao su tự nhiên ngay trong năm 2011 sẽ làm hạn chế tốc độ đầu tư, phát triển của ngành, ảnh hưởng tới tình hình sản xuất, XK.
Đại diện cho Hiệp hội Cao su Việt Nam (VRA), Tổng thư ký Trần Thị Thúy Hoa cho rằng, dự thảo áp dụng thuế xuất khẩu đối với cao su thuộc nhóm 4001 và 4002 sẽ tăng từ 3% hiện nay lên 5% của Bộ Tài chính cần được xem xét lại vì đây là một trong những nông sản đang được khuyến khích xuất khẩu. Thêm vào đó, nếu giai đoạn hiện nay áp dụng mức thuế này sẽ khiến DN gặp khó khăn trong lúc nhiều đơn vị đã ký hợp đồng dài hạn. Vì vậy, bà Hoa có kiến nghị, Bộ Tài chính cần phải cân nhắc kỹ lưỡng và không nên quá vội vàng áp dụng mức thuế này đối với xuất khẩu cao su thiên nhiên.
Áp dụng phải theo lộ trình và rõ ràng
Theo ông Nguyễn Trí Ngọc- Cục trưởng Cục trồng trọt Bộ NN& PTNT, hiện nay, tại Maylasia mức thuế xuất khẩu áp dụng cho cao su là trên 1%, Thái Lan là 1,2% và việc tăng thuế đều theo lộ trình, mức tăng tính thuế theo giá XK tăng chứ không gộp chung vào một mức. Một yếu tố đáng chú ý, tất cả các khoản thuế XK mà Thái Lan và Malaysia thu đều tái đầu tư cho việc phát triển ngành cao su của các nước này.
Không phủ nhận quan điểm của Bộ Tài chính là phải thu thuế XK thế nhưng, theo ông Hồ Ngọc Hà Thi- Phó ban Xuất khẩu Tập đoàn Cao su Việt Nam là cần phải xác định xem thu ở thời điểm nào, mức nào là phù hợp, đặc biệt phải có lộ trình rõ ràng, để việc thu thuế không chỉ nhằm tăng ngân sách mà còn là hỗ trợ ngành cao su phát triển bền vững.
Hiệp hội Cao su Việt Nam và Tập đoàn Công nghiệp cao su Việt Nam cũng đã có công văn gửi Bộ Tài chính về nội dung dự thảo thuế XK cao su. Trong công văn có phân tích rõ rang rằng, Bộ Tài chính có thể áp dụng mức thuế XK 5% đối với mặt hàng cao su tổng hợp thuộc nhóm 4002 là mặt hàng chủ yếu tạm nhập tái xuất và áp dụng mức thuế 3% cho cao su hỗn hợp mã 4005. Và từ năm 2012, có thể áp dụng thuế XK 1% cho cao su thiên nhiên thuộc nhóm 4001 đối với những lô hàng không có giấy chứng nhận kiểm phẩm từ những phòng kiểm phẩm đạt cấp quốc gia.
Đại diện lãnh đạo Bộ NN& PTNT, thứ trưởng Bùi Bá Bổng cũng có quan điểm rằng, từ năm 2012, Bộ Tài chính có thể áp thuế 3% đối với các mặt hàng không khuyến khích xuất khẩu để hỗ trợ quản lý chất lượng cao su xuất khẩu, xây dựng uy tín, thương hiệu cao su Việt Nam. Tương tự đối với cao su tổng hợp mã HS 4002, các mặt hàng này Việt Nam chưa sản xuất được chỉ tạm nhập, tái xuất thì không nên đánh thuế. Mức thuế này nên áp dụng đối với cao su thiên nhiên mã HS 4001 không có giấy chứng nhận kiểm phẩm từ các phòng kiểm phẩm đạt cấp quốc gia.
Việc áp dụng thuế xuất đối với cao su không phải là không cần thiết, tuy nhiên, áp dụng như thế nào để khuyến khích ngành phát triển lại không phải dễ. Vì vậy, yêu cầu đặt ra là chúng ta không nên quá vội vàng và cần phải có những lộ trình áp dụng thật cụ thể cho từng chủng loại cao su xuất khẩu- ông Bổng nói.
Lưu Hiệp