Giải bài toán xuất khẩu dừa

10:09:30 | 21/6/2012

Dừa là một trong những cây trồng chủ lực đem lại giá trị kinh tế cao, góp phần giải quyết việc làm cho người dân Bến Tre. Các sản phẩm từ dừa luôn chiếm tỷ lệ lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của tỉnh. Tuy nhiên thời gian gần đây, tình hình xuất khẩu dừa đang gặp khó. Điều này đòi hỏi ngành dừa Bến Tre cần đa dạng hóa thị trường, đầu tư công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm để sản phẩm dừa ngày càng vươn xa trên thị trường thế giới.

Hiện nay, Bến Tre có diện tích dừa lớn nhất Việt Nam, (hơn 52.000 ha), sản lượng hơn 400 triệu trái/năm, chiếm hơn 35% sản lượng dừa cả nước. Giá trị các sản phẩm từ dừa chiếm hơn 25% tổng giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnh. Kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm dừa chiếm 40% tổng kim ngạch xuất khẩu của Bến Tre.

Kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm dừa Bến Tre tăng khá nhanh trong 10 năm qua, chiếm tỷ lệ cao trong cơ cấu hàng xuất khẩu của tỉnh. Nếu như năm 2000, kim ngạch xuất khẩu sản phẩm dừa là 17 triệu USD thì đến năm 2011 tăng lên 159 triệu USD. Mỗi năm ngành dừa tạo ra giá trị tăng khoảng 4.000 tỷ đồng, giải quyết việc làm cho 60.000 lao động.

Nhu cầu tiêu dùng sản phẩm dừa trên thế giới ngày càng nhiều. Trong đó những sản phẩm nổi bật và được nhiều người tiêu dùng ưa chuộng là mặt hàng cơm dừa nạo sấy, bột sữa dừa, nước cốt dừa đóng lon được dùng trong công nghiệp thực phẩm, chế biến bánh kẹo, các món ăn hàng ngày. Đặc biệt, các dân tộc theo đạo Hồi và các nước phát triển đang có khuynh hướng dùng chất béo của thực vật thay cho chất béo động vật nên xuất khẩu sản phẩm dừa ngày càng tăng.

Năm 2000, sản phẩm dừa của Bến Tre được xuất khẩu sang 23 nước và vùng lãnh thổ, năm 2005 xuất khẩu sang 48 nước và vùng lãnh thổ, năm 2010 xuất khẩu sang 65 nước và vùng lãnh thổ. Cơ cấu thị trường có sự chuyển dịch phù hợp theo định hướng của chương trình phát triển xuất khẩu của tỉnh và phát triển theo xu thế hội nhập kinh tế quốc tế.

Tuy nhiên trong những tháng đầu năm 2012, tình hình xuất khẩu của Bến Tre gặp khó. Theo Sở Công Thương tỉnh Bến Tre thì kim ngạch xuất khẩu tăng chậm (6,82%) chủ yếu gia tăng về lượng hàng xuất khẩu (14,23 %), riêng giá các mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn đều giảm (7,31 %); trong đó giá giảm mạnh nhất là các sản phẩm dừa, mặt hàng giảm giá thấp nhất là 20% và mặt hàng giảm nhiều nhất là cơm dừa nạo sấy giá giảm trên 50% so với cùng kỳ.

Theo ông Trương Minh Nhựt – Giám đốc Sở Công Thương tỉnh Bến Tre thì sở dĩ có tình trạng trên là do cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu làm giảm nhu cầu tiêu thụ tại các thị trường chính, tuy hiện nay đã phục hồi nhưng còn chậm. Gần đây ảnh hưởng sự bất ổn về chính trị ở một số nước Trung đông, Bắc Phi, khủng hoảng nợ công một ở số nước Châu Âu cũng tác động đến thị trường xuất khẩu của Bến Tre nói riêng và cả nước nói chung.

Bên cạnh đó, nội tại ngành dừa cũng còn tồn tại nhiều vấn đề như các sản phẩm từ dừa tuy đa dạng nhưng vẫn chứa hàm lượng chất xám thấp nên giá trị kinh tế mang lại chưa cao. Từ lâu ngành dừa Bến Tre đã hình thành nhiều phân khúc liên hoàn gồm các khâu: Trồng, cung cấp nguyên liệu, chế biến, dịch vụ, thương mại, xuất nhập khẩu. Song, các khâu này lại chỉ gắn với nhau qua mua bán sản phẩm từng chặng, chưa có sự gắn kết chặt chẽ. Do đó, khi ngành dừa gặp khó khăn thì “mạnh ai nấy lo” làm cho mối liên kết bị phân khúc, gián đoạn.

Đứng trước những khó khăn trên, theo ông Trương Minh Nhựt thì ngành công thương Bến Tre sẽ tích cực đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả hoạt động xúc tiến thương mại, tận dụng hiệu quả cơ hội thị trường mở ra từ các FTA. Hỗ trợ các doanh nghiệp đẩy mạnh các hoạt động tiếp thị, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp giữ ổn định thị trường truyền thống, mở rộng và thâm nhập thị trường mới.

Đa dạng hóa thị trường xuất khẩu để giảm rủi ro khi thị trường thế giới biến động, gắn thị trường trong nước với thị trường xuất khẩu theo hướng phát triển thị trường trong nước để tạo nguồn hàng cung ứng cho xuất khẩu, đồng thời mở rộng thị trường xuất khẩu để kích thích phát triển sản xuất trong tỉnh ngày càng tốt hơn.

Mặt khác, các doanh nghiệp phải năng động, phản ứng tích cực, nhanh chóng trước những biến động của thị trường trong và ngoài nước; nghiên cứu nắm chắc tình hình thị trường, mạnh dạn đầu tư máy móc thiết bị, đổi mới công nghệ, tổ chức lại sản xuất, lựa chọn tập trung sản xuất những sản phẩm có giá trị gia tăng cao đáp ứng nhu cầu của thị trường, nâng cao chất lượng sản phẩm đạt tiêu chuẩn quốc gia và quốc tế.

Việt Tuấn