Quản lý và khai thác tài nguyên khoáng sản: Một mình một lối

09:00:11 | 21/5/2010

Theo kết quả khai thác chế biến khoáng sản phân tích từ các số liệu thống kê của Tổng hội Địa chất Việt Nam, mặc dù được đầu tư cao (đứng thứ 5), nhưng đóng góp vào tăng trưởng GDP của ngành khai khoáng lại thấp hơn so với nhiều ngành kinh tế khác.

Chưa kể nguy cơ cạn kiệt nguồn tài nguyên khoáng sản quý giá đang ngày càng hiện hữu bởi sự khai thác bừa bãi và quản lý lỏng lẻo của các cơ quan chức năng.

Đó là những nhận định được đưa ra trong Hội thảo “Tài nguyên khoáng sản và phát triển bền vững ở Việt Nam” tổ chức mới đây tại Hà Nội. Bên cạnh những nhận định và đánh giá về tình hình khai thác khoáng sản trong nước, các nhà khoa học và chuyên gia cũng hiến kế để nâng cao hiệu quả của ngành công nghiệp mũi nhọn này.

Tài nguyên ít, công nghệ lạc hậu

Theo con số thống kê của Viện Tư vấn phát triển về nguồn tài nguyên khoáng sản. Việt Nam hiện có 5.000 mỏ và điểm khoáng sản của hơn 60 loại khoáng sản, tuy nhiên, con số này không cho phép Việt Nam lạc quan về sự phong phú và dồi dào của nguồn khoáng sản trong nước. Bởi thực tế, khoáng sản Việt Nam tuy đa dạng nhưng trữ lượng không lớn. Những loại khoáng sản thế giới cần thì trong nước không có và ngược lại, những loại trong nước có thì thế giới lại không cần.

Cụ thể, nhóm khoáng sản kim loại tuy đa dạng nhưng có trữ lượng rất nhỏ. Còn nhóm khoáng sản năng lượng (than, dầu khí) trữ lượng trung bình và dự báo sẽ cạn kiệt trong vài chục năm tới. Chỉ có một số loại khoáng sản không kim loại như bô xít, đất hiếm, titan, đá vôi… có trữ lượng lớn, song những loại này trên thế giới cũng có rất nhiều, trong khi nhu cầu lại ít, thậm chí hàng trăm năm nữa mới hết. Trong khi đó, các loại đá quý như kim cương, ruby, saphia… tuy đã được phát hiện nhưng chưa rõ trữ lượng hoặc trữ lượng rất nhỏ.

Trong khi các quốc gia sử dụng rất dè sẻn nguồn tài nguyên khoáng sản trong nước thì Việt Nam lại “vung tay quá trán”. Chẳng hạn, nguồn Ilmenit- nguyên liệu chính để chế biến ra titan của Việt Nam, có trữ lượng được xác định là 15 triệu tấn; bên cạnh việc khai thác để sử dụng trong nước, mỗi năm chúng ta dành 0,6 triệu tấn cho xuất khẩu. Trong khi đó, nước láng giềng Trung Quốc mỗi năm chỉ khai thác 0,6 triệu tấn để sử dụng. Và mặc dù với trữ lượng 200 triệu tấn, thì sau 300 năm nữa nguồn Ilmenit của nước này mới cạn, nhưng họ vẫn nhập Ilmenit của Việt Nam.

Sử dụng lãng phí, công nghệ khai thác và chế biến còn lạc hậu, nên việc tổn thất tài nguyên là rất lớn. Theo đánh giá của các chuyên gia, ngoài dự án lớn của các tập đoàn kinh tế nhà nước, đầu tư của nước ngoài lựa chọn được công nghệ khá tiên tiến, phần nhiều dự án khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam có quy mô nhỏ và công nghệ lạc hậu. Bởi vậy, tổn thất trong khai khoáng ở Việt Nam hiện rất cao. Đa số các mỏ quy mô nhỏ hiện nay, Việt Nam mới chỉ lấy được phần quặng giàu nhất mà bỏ đi toàn bộ các quặng nghèo và khoáng sản đi cùng.

Trình độ chế biến cũng là vấn đề cần bàn. Vì vậy, ngành khai khoáng mới chỉ dừng lại ở việc bán các quặng thô với giá bèo. Đơn cử như Ilmenit, nếu bán với giá 1 đồng, thì xỉ titan bán được 2,5 đồng, pigment bán 10 đồng, còn titan kim loại thì nhảy vọt lên giá 80 đồng. Tuy nhiên, hiện Việt Nam chỉ bán được 1 đồng và để 79 đồng còn lại vào tay những nước có công nghệ chế biến tiên tiến, hiện đại.

Điều này thể hiện rõ ở nghịch lý: Năm 2009, Việt Nam xuất khẩu đạt khoảng 8,5 tỷ USD hàng hóa có nguồn gốc từ khoáng sản, nhưng cũng nhập về khoảng 15,5 tỷ USD thiết bị, vật liệu có nguồn gốc từ khoáng sản.

Khai thác tràn lan

PGS.TS Nguyễn Khắc Vinh - Chủ tịch Tổng hội Địa chất Việt Nam bày tỏ sự lo lắng: “Đào tài nguyên đem bán, nhưng nhu cầu khoáng sản của thế giới ra sao thì lại không nắm được. Cứ phát hiện thấy quặng là bới lên để khai mỏ mà không biết sẽ bán cho ai”.

Điều đó cũng lý giải phần nào tình trạng cấp phép ồ ạt và tràn lan như vậy, song vai trò của các cơ quan chức năng lại không được phân định rõ. Nhiều địa phương liên tục cấp phép cho các đơn vị khai thác khoáng sản, một phần là do lãnh đạo mang nặng tư duy nhiệm kỳ, chỉ chú đến tăng trưởng GDP mà ít chú ý đến yếu tố phát triển bền vững. Quản lý nhà nước về khoáng sản chưa có tổ chức thống nhất đủ thẩm quyền điều phối các bên liên quan, dẫn đến khi có vấn đề phát sinh thì không rõ trách nhiệm thuộc ngành nào.

Mặc dù là một ngành quan trọng, song công tác lập chiến lược quy hoạch lại được triển khai chậm và chất lượng quy hoạch thấp, quản lý cũng quá lỏng lẻo. Ở nhiều địa phương, nạn khai thác khoáng sản không phép, khai thác tự do, nhất là đối với vàng sa khoáng, đá quý, chì, kẽm, titan… chưa được ngăn chặn và để lại nhiều hậu quả về xã hội, về môi trường khôn lường.

TS. Nguyễn Văn Tài, Viện trưởng Viện Chiến lược- Chính sách (Bộ Tài nguyên và Môi trường) cho rằng: “Sở dĩ, việc khai thác và sử dụng tài nguyên ở Việt Nam còn kém hiệu quả là do công tác quản lý tài nguyên và bảo về môi trường chưa theo kịp, chưa đồng bộ với nền kinh tế thị trường…”


Ý kiến của các chuyên gia:

TS. Trần Đình Thiên- Viện trưởng Viện kinh tế Việt Nam

Thị trường hóa tài nguyên:

Luật Khoáng sản sửa đổi sắp tới phải là công cụ pháp lý để thay đổi mô hình tăng trưởng kinh tế. Tài nguyen đào lên chỉ mới là nguồn lực, nó phải được thị trường hóa. Hiện nay, cấu trúc sở hữu tạo nên các nhóm lợi ích kiếm soát quá trình thị trường hóa nguồn lực, hướng lợi ích vào một số ít người. Muốn phát triển bền vững, phải phá vỡ cho được cấu trúc sai lạc đó. Đồng thời, phải coi bảo vệ môi trường là thước đo hiệu quả, tính bền vững của các loại hoạt động kinh tế để có thể hoạch toán toàn diện và đầy đủ.

TS. Lê Ái Thụ- PCT kiêm Tổng thư ký Hội Địa chất kinh tế

Xây dựng định giá tài nguyên:

Để cụ thể hóa chính sách trong lĩnh vực khoáng sản, cần thiết phải xây dựng nguyên tắc và phương pháp định giá tài nguyên khoáng sản chưa khai thác. Đó là một trong những căn cứ quan trọng để tổ chức đấu giá quyền khai thác khoáng sản; xác định thuế chuyển nhượng quyền khai thác khoáng sản. Đó cũng nhằm xác định lệ phí độc quyền khai thác khoáng sản; xác định phần góp vốn của Nhà nước bằng tài nguyên khoáng sản chưa khai thác trong trường hợp hợp tác liên doanh khai thác, cổ phần hóa các doanh nghiệp khai thác khoáng sản, xử lý tài sản trong trường hợp các doanh nghiệp khai thác khoáng sản bị phá sản, giải thể hoặc bán doanh nghiệp.

Ông Nguyễn Trung- nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ

Cấm khai thác nhỏ lẻ:

Nên sớm tổ chức tổng điều tra lại chuẩn xác toàn bộ tài nguyên và khoáng sản của đất nước, so sánh với các số liệu đã có, để từ đó có các dữ liệu tin cây cho việc xây dựng một chiến lược lâu dài. Quyết định này làm gì hay khai thác khoáng sản nào cũng phải dựa trên cơ sở đánh giá kỹ lợi thế cạnh tranh và quan trình hội nhập toàn cầu ngày càng sâu rộng của nước ta. Từ những bài học đã rút ra cho đến nay, nên chăng hạn chế, tiến tới cấm hẳn kiểu chạy đua chuyển đổi cơ cấu kinh tế GDP của tỉnh để chuyển sang chạy đua phát triển lợi thế cạnh tranh của tỉnh.

Lương Tuấn