Sau 3 năm thực hiện Nghị quyết 04-NQ/TU ngày 12/04/2021 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về chuyển đổi số (CĐS), tỉnh Quảng Nam đạt nhiều kết quả quan trọng. Ông Phạm Hồng Quảng - Giám đốc Sở Thông tin và Truyền thông (TT&TT) cho biết: Tỉnh triển khai đồng bộ từ “trên xuống và dưới lên”; quá trình CĐS không chỉ tại bộ máy nhà nước cấp tỉnh, huyện mà ở cả các đơn vị cơ sở, cộng đồng dân cư,… cũng mạnh mẽ với mục tiêu lấy người dân, doanh nghiệp (DN) làm trung tâm.
![]() |
Tỉnh Quảng Nam đã bắt nhịp, triển khai công cuộc số hóa ra sao, thưa ông?
Những năm qua, Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh đã quan tâm, chỉ đạo quyết liệt, đồng bộ và toàn diện việc CĐS. Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành Nghị quyết 04-NQ/TU ngày 12/04/2021 về CĐS tỉnh Quảng Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030; HĐND tỉnh cũng ban hành Đề án Phát triển ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng chính quyền số tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2021 - 2025 (Nghị quyết số 33/NQ-HĐND ngày 17/9/2020).
Trên cơ sở đó, UBND tỉnh đã ban hành, triển khai nhiều kế hoạch như: Kế hoạch số 6124/KH-UBND ngày 19/10/2020 về thực hiện chương trình CĐS tỉnh Quảng Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030; Kế hoạch số 6247/KH-UBND ngày 17/9/2021 về Hỗ trợ DN nhỏ và vừa triển khai CĐS trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2021 - 2025...; đồng thời chỉ đạo các ngành, địa phương đẩy mạnh CĐS; thành lập các Ban Chỉ đạo CĐS từng cơ quan, đơn vị và xây dựng kế hoạch triển khai.
Việc đầu tư, xây dựng, phát triển hạ tầng để thúc đẩy nền sản xuất thông minh, phát triển kinh tế số, xã hội số được đẩy mạnh. Hạ tầng viễn thông đã phát triển hiện đại, an toàn, dung lượng lớn, tốc độ cao, vùng phủ dịch vụ rộng khắp, chú trọng đến mạng thông tin di động thế hệ thứ 4 (4G), thứ 5 (5G); việc triển khai kết nối với mạng truyền số liệu chuyên dùng đến 100% các xã. Hạ tầng Trung tâm dữ liệu tỉnh được nâng cấp, đảm bảo năng lực triển khai chính quyền số, đô thị thông minh theo hướng sử dụng công nghệ điện toán đám mây. Hệ thống mạng WAN, hội nghị truyền hình trực tuyến, camera giám sát được đầu tư từ tỉnh đến huyện, xã; nhiều dịch vụ công trực tuyến (DVCTT) triển khai mạnh mẽ.
Quá trình CĐS trên cả 03 trụ cột: Chính quyền số, kinh tế số, xã hội số, trong đó triển khai chính quyền số là nội dung trọng tâm: Đưa toàn bộ hoạt động cơ quan nhà nước lên môi trường số, đổi mới cách thức cung cấp dịch vụ dựa trên công nghệ số và dữ liệu. Đến nay, Quảng Nam đã đầu tư, xây dựng và đưa vào vận hành các ứng dụng dùng chung tạo nền tảng xây dựng chính quyền điện tử. Tỉnh đã triển khai đồng bộ các ứng dụng dùng chung như: Hệ thống quản lý văn bản và điều hành tác nghiệp Qoffice, Hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính (TTHC),... Cổng dịch vụ công và Hệ thống thông tin một cửa điện tử đã kết nối cung cấp 1.305 DVCTT (có 1.289 DVCTT toàn trình) trên Cổng dịch vụ công quốc gia. UBND tỉnh cũng đã phê duyệt danh mục DVCTT gồm 1.237 dịch vụ công toàn trình và 442 dịch vụ công một phần với tỷ lệ hồ sơ trực tuyến đạt 76,55%,... Tỉnh còn đưa vào vận hành hệ thống bản đồ giám sát thực thi thể chế tại địa chỉ https://bandotheche.quangnam.gov.vn, cung cấp thông tin giám sát, thống kê đối với các chỉ tiêu về tiến độ giải quyết TTHC, tỷ lệ hồ sơ trực tuyến, thanh toán trực tuyến của các cơ quan, đơn vị trên.

Tỉnh Quảng Nam tổ chức cuộc thi tìm hiểu CCHC và CĐS trên sóng truyền hình, tháng 10/2023
Bên cạnh đó, Quảng Nam đã triển khai thực hiện hệ thống Trung tâm Giám sát, điều hành đô thị thông minh (IOC) cấp tỉnh và 11 huyện; triển khai nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu cấp tỉnh (LGSP), hệ thống thông tin báo cáo cấp tỉnh. Các ứng dụng phục vụ người dân như Smart Quảng Nam, 1022 Quảng Nam cho phép người dân dễ dàng tiếp cận các thông tin, thông báo, dịch vụ tiện ích của chính quyền, đồng thời có thể gửi các phản ánh, kiến nghị, khó khăn đến cơ quan chức năng để giải quyết.
Tháng 10/2023, tỉnh đã khánh thành Trung tâm tích hợp dữ liệu và Trung tâm giám sát an toàn thông tin tỉnh. Đây là nơi tập trung toàn bộ hệ thống mạng, hệ thống máy chủ phục vụ triển khai các hệ thống thông tin dùng chung toàn tỉnh. Các hệ thống thông tin dùng chung được tập trung tại trung tâm nhằm đảm bảo khả năng bảo vệ các ứng dụng, dịch vụ, dữ liệu, cũng như tránh tình trạng phát triển ứng dụng, dịch vụ riêng lẻ tại cơ quan, đơn vị.
Sau 03 năm triển khai Nghị quyết 04-NQ/TU ngày 12/04/2021 của Tỉnh ủy, Quảng Nam đã đạt kết quả nổi bật nào?
Điểm nổi bật sau 03 năm triển khai Nghị quyết 04-NQ/TU ngày 12/04/2021 của Tỉnh ủy là nhận thức của hệ thống chính trị, người dân và DN đã có chuyển biến mạnh mẽ; việc CĐS đã tạo ra các giá trị mới và tác động đến sự phát triển trên các khía cạnh:
Thứ nhất, tăng cường hiệu suất, hiệu quả các quy trình và hoạt động kinh tế - xã hội (KT - XH). Việc áp dụng công nghệ thông tin, DVCTT rút ngắn thời gian xử lý hồ sơ, tăng cường tính chính xác và tiết kiệm tài nguyên; giúp cải thiện năng suất, tạo thuận lợi hơn cho doanh nghiệp.
Thứ hai, thúc đẩy môi trường kinh doanh thuận lợi và hấp dẫn hơn. Việc cung cấp DVCTT toàn trình giúp giảm thiểu TTHC, đơn giản hóa quy trình kinh doanh, tăng cường tính minh bạch. Điều này thu hút sự quan tâm và đầu tư từ DN, tạo thuận lợi phát triển các ngành công nghiệp, dịch vụ.
Thứ ba, nâng cao chất lượng dịch vụ công, mang lại sự hài lòng của người dân và DN. Việc cung cấp DVCTT toàn trình, kết hợp với công nghệ thông tin và chữ ký số giúp tăng cường tính chính xác, nhanh chóng, tiện lợi.
Thứ tư, khuyến khích sáng tạo và đổi mới. Việc áp dụng công nghệ mới, phát triển ứng dụng di động, trí tuệ nhân tạo và khám phá dữ liệu mở tạo cơ hội cho sáng tạo, đổi mới trong nhiều lĩnh vực, góp phần đẩy mạnh phát triển kinh tế đa ngành, đa lĩnh vực.
Có thể khẳng định CĐS đã, đang tác động toàn diện đến KT - XH, góp phần tạo ra môi trường phát triển bền vững, nâng cao chất lượng cuộc sống cộng đồng.
Để CĐS đạt hiệu quả thiết thực hơn, đâu là điểm nghẽn cần tháo gỡ, thưa ông?
Tuy có nhiều chuyển biến tích cực nhưng quá trình CĐS còn khó khăn như: Cán bộ chuyên trách CNTT, CĐS tại các đơn vị, địa phương còn thiếu, phần lớn là kiêm nhiệm (nhất là cấp huyện, cấp xã) trong khi nhận thức về CĐS một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức chưa đầy đủ; người dân còn “tâm lý truyền thống” khi làm TTHC, trực tiếp đến cơ quan, gặp cán bộ mới yên tâm, nhất là thủ tục về đất đai và liên quan đến tài sản. Tại một số xã vùng sâu vùng xa, hệ thống hạ tầng phục vụ CĐS chưa đầy đủ, tỷ lệ người dân có điện thoại thông minh còn thấp. Các tổ công nghệ số cộng đồng chủ yếu hoạt động trên tinh thần tự nguyện, chưa có cơ chế, kinh phí hoạt động; công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm trên không gian mạng, bảo đảm an toàn thông tin còn khó khăn,...
Để tháo gỡ các điểm nghẽn trên, tỉnh đang tập trung thực hiện các giải pháp sau:
Trước hết, tăng cường sự lãnh đạo, quản lý của Đảng, Nhà nước, vai trò của Mặt trận Tổ quốc và tổ chức chính trị - xã hội; triển khai hiệu quả các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương, Tỉnh ủy về CĐS; phát huy vai trò người đứng đầu trong triển khai CĐS và đưa kết quả triển khai CĐS vào chỉ tiêu đánh giá các ngành, cấp và cán bộ, công chức.
Bên cạnh đó là tuyên truyền, nâng cao nhận thức và hành động về CĐS; về an ninh, an toàn thông tin cho người dân tham gia CĐS; kiểm tra, giám sát việc CĐS gắn với CCHC.
Đẩy mạnh xây dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ, thúc đẩy phát triển DN CĐS; tạo thuận lợi thúc đẩy hoạt động khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo; thu hút đầu tư DN số; xây dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ Tổ công nghệ số cộng đồng; phát triển nguồn nhân lực phục vụ CĐS; đầu tư hạ tầng số, nền tảng số,...
Song hành triển khai các nền tảng số về thương mại điện tử, nông nghiệp, du lịch, y tế, giáo dục, giao thông...; phát triển hạ tầng kết nối mạng Internet vạn vật (IoT),... tỉnh cũng chú trọng bảo đảm an toàn, an ninh mạng là then chốt để CĐS thành công và bền vững.
Đặc biệt, Quảng Nam sẽ tập trung đào tạo, nâng cao nhận thức, kỹ năng phục vụ vận hành hoạt động CĐS; xây dựng chính sách đặc thù cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức làm nhiệm vụ chuyên trách công nghệ thông tin và CĐS.
Nhằm góp phần nâng cao Chỉ số Tính minh bạch và Chỉ số Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI), ngành Thông tin và Truyền thông đã, đang tham mưu, thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp gì?
Ngành đã, đang tham mưu, thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp như sau:
Thứ nhất, cung cấp đầy đủ thông tin lên Cổng, trang thông tin điện tử của cơ quan, đơn vị, địa phương các thông tin về chiến lược, định hướng, quy hoạch, kế hoạch phát triển; văn bản luật, pháp lệnh, quyết định của Trung ương, các bộ, ngành, tỉnh, huyện; dự án xây dựng cơ sở hạ tầng mới; dự án, hạng mục đầu tư, đấu thầu mua sắm công; các bản đồ và các quy hoạch sử dụng đất,... giúp người dân và DN tiếp cận được đầy đủ thông tin.
Thứ hai, tuyên truyền để DN nắm được cách thức và lợi ích khi truy cập vào Cổng/trang thông tin điện tử của các cơ quan nhà nước.
Thứ ba, Sở Thông tin và Truyền thông chỉ đạo Cổng thông tin điện tử tỉnh đảm bảo về kỹ thuật, hình thức, nội dung để Cổng thông tin điện tử và các trang thông tin điện tử thành phần đáp ứng chất lượng, mỹ quan, thân thiện và hoạt động ổn định cũng như đảm bảo an toàn an ninh.
Trân trọng cảm ơn ông!
Ngô Khuyến (Vietnam Business Forum)
từ ngày 18 – 19/12/2025
VCCI
từ 11/11/2025 đến 30/11/2025
VCCI