HÀ NỘI

Hà Nội: Đưa sản phẩm làng nghề vươn xa

09:47:06 | 18/7/2023

Không chỉ giải quyết việc làm, góp phần cải thiện đời sống cho người lao động, các làng nghề còn góp phần gìn giữ và phát triển bản sắc văn hóa truyền thống của mỗi địa phương.

Hà Nội hiện có 806 làng nghề, làng có nghề, trong đó có 321 làng nghề, làng nghề truyền thống đã được công nhận và phân bố hầu khắp các quận, huyện và thị xã. Là một trong những địa phương có số lượng làng nghề, làng có nghề lớn nhất cả nước, Hà Nội luôn được đánh giá là cái nôi sản xuất ra những sản phẩm làng nghề truyền thông đạt chất lượng cao và được người tiêu dùng trong và ngoài nước ưa thích

Nhiều khó khăn

Một trong những thế mạnh của các làng nghề, làng có nghề của Hà Nội là các làng nghề được phân bố rộng khắp Thành phố, từ các quận, huyện, thị xã, đến các thôn, các phường… Đây chính là điều kiện để Hà Nội phát triển kinh tế, nâng cao đời sống của nhân dân địa phương; đặc biệt là những người dân, nghệ nhân ở các làng nghề. Thực tế cho thấy, thời gian qua, các làng nghề, làng nghề truyền thống ở Hà Nội đã và đang góp phần tích cực chuyển dịch cơ cấu, phát triển kinh tế nông thôn, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho lao động tại các địa phương; đồng thời tạo tiền đề thực hiện thành công chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP) và xây dựng nông thôn mới trên địa bàn Thủ đô.

Các sản phẩm của làng nghề đa dạng nhiều chủng loại, mẫu mã đẹp, chất lượng tốt, một số có thế mạnh cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước, bao gồm: Sản phẩm mây tre đan, may mặc, gốm sứ; sản phẩm dệt và thêu ren truyền thống; đồ gỗ phục vụ tiêu dùng và xây dựng; sản phẩm cơ khí; chế biến nông sản thực phẩm (bánh, bún, kẹo, giò chả, bánh chưng, chè…). Mặc dù có nhiều lợi thế để phát triển các làng nghề truyền thống, nhưng thực tế cho thấy tại các làng nghề trên địa bàn Hà Nội hiện đang gặp khó khăn trong khâu cung cấp nguyên liệu, nguồn cung không đáp ứng được nhu cầu sản xuất, ảnh hưởng đến việc sản xuất, tiêu thụ các sản phẩm làng nghề và trở thành nỗi trăn trở của các nghệ nhân tại làng nghề, làng có nghề trên địa bàn Thủ đô.

Theo tính toán, nhu cầu nguyên liệu để sản xuất gốm sứ hàng năm của 3 làng nghề: Bát Tràng, Giang Cao, Kim Lan khoảng trên 10.000 tấn đất sét trắng. Nguồn nguyên liệu này chủ yếu nhập từ các tỉnh trong nước và nhập khẩu. Đối với nhóm nghề mây tre đan, riêng huyện Chương Mỹ mỗi năm tiêu thụ khoảng 600 tấn mây, 700 tấn song và 500.000 cây tre, nứa, giang…

Nghệ nhân Nguyễn Văn Trung, làng nghề mây tre đan Phú Vinh (xã Phú Nghĩa, huyện Chương Mỹ), cho biết, hiện nguyên liệu mây tre lá cỏ đang có ở địa bàn Hà Nội chỉ đáp ứng được 20% nhu cầu cần sử dụng nguyên liệu của thị trường. Do đó, các doanh nghiệp đã tự đi tìm những vùng nguyên liệu để tổ chức thu mua, hướng dẫn kỹ thuật khai thác và xử lý, bảo quản nhằm đảm bảo nguồn cung nguyên liệu đảm bảo phục vụ quá trình sản xuất ổn định, nên rất khó khăn. Với sự khan hiếm của nguyên liệu, dẫn đến giá thành nguyên liệu tăng cao, tăng chi phí sản xuất sản phẩm, gây khó khăn cho các doanh nghiệp và người sản xuất.

Hiện nay thông tin hai chiều kết nối giữa người sản xuất và người cung ứng nguyên liệu đầu vào còn hạn chế, dẫn đến việc nguồn cung không đáp ứng cầu, do vậy dẫn đến khó khăn trong việc sản xuất và tiêu thụ của cả hai bên. Ngoài ra, hiện hầu hết nguyên liệu cho sản xuất tại các làng nghề ở Hà Nội phụ thuộc vào bên ngoài khiến các hộ sản xuất không chủ động được. Ông Trung nói

Theo Ông Lê Bá Ngọc, Tổng Thư ký Hiệp hội Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam phân tích, nguồn nguyên liệu ngày càng khan hiếm và giá nguyên liệu tăng nhanh trong khi giá xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ lại khó tăng. Ví dụ ngành gốm sứ, giá đất sét tăng trên 90% trong 5 năm gần đây, giá cao lanh cũng tăng 75%... Do giá nguyên liệu tăng cao nên lợi nhuận của các DN gốm sứ ngày càng giảm.

Tăng cường kết nối giao thương

GĐ Sở NN&PTNT Hà Nội Nguyễn Xuân Đại cho biết: Hà Nội được ví là “đất trăm nghề” và có nhu cầu rất cao về nguồn nguyên liệu, trong khi đó, do đặc thù là Thủ đô, diện tích sản xuất có hạn nên nguyên liệu cơ bản phải nhập từ địa phương khác. Nhiều năm gần đây, một số tỉnh, Thành phố đã và đang tiến hành lập quy hoạch vùng nguyên liệu. Tuy nhiên các quy hoạch này đều chưa xác định được vùng nguyên liệu cụ thể. Hơn nữa, các quy hoạch chỉ tiến hành cho từng tỉnh, từng địa phương riêng rẽ mà chưa gắn kết quy mô vùng nhằm tận dụng tối đa lợi thế vùng miền trên cả nước.

Ông Nguyễn Văn Chí, Chi cục trưởng Chi cục Phát triển nông thôn Hà Nội cho biết: Hà Nội luôn có nhu cầu rất cao về nguồn nguyên liệu. Chính vì vậy, hiện nay Thành phố luôn quan tâm kết nối vùng nguyên liệu với các tỉnh, thành phố trong cả nước để triển khai sản xuất. Để gỡ khó cho việc cung ứng nguồn nguyên liệu phát triển làng nghề, Nhà nước cần phải hoàn thiện các chính sách về đất đai, vùng nguyên liệu. Trong đó, dành quỹ đất để xây dựng các cụm công nghiệp, cụm công nghiệp làng nghề nhằm di dời các cơ sở sản xuất trong khu dân cư vào sản xuất tập trung. Hỗ trợ, khuyến khích các doanh nghiệp, hợp tác xã, cá nhân trong việc cho thuê đất, tích tụ đất đai để phát triển vùng nguyên liệu tập trung trong và ngoài tỉnh để phục vụ sản xuất. Điều chỉnh giảm giá thuê đất đối với các cơ sở sản xuất ngành nghề nông thôn trong các cụm công nghiệp, vùng nguyên liệu sản xuất tập trung phục vụ sản xuất. Song song với đó là đầu tư phát triển các vùng nguyên liệu tập trung, ổn định để cung cấp nguyên liệu cho các làng nghề. Ưu tiên phát triển một số sản phẩm chủ lực như mây tre lá, gốm sứ, thêu dệt, dược liệu… tại các địa phương có điều kiện tự nhiên phù hợp.

Đồng thời, hỗ trợ cơ chế hợp tác công tư để phát triển vùng nguyên liệu, chế biến và kinh doanh nguyên liệu phục vụ làng nghề. Hỗ trợ phát triển các nguồn nguyên liệu có chứng chỉ bền vững, phù hợp quy chuẩn quốc tế và nguồn nguyên liệu thích ứng, giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu. Khuyến khích doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp lớn, đầu tư liên kết với nông dân xây dựng, phát triển các chuỗi sản xuất tập trung từ việc trồng, thu mua, bảo quản, chế biến, tiêu thụ; tăng cường đầu tư cho khoa học và công nghệ phục vụ sản xuất, phát triển cơ giới hóa nông nghiệp và chế biến nông sản.

Bài viết có sự phối hợp của Chi cục Phát triển nông thôn thành phố Hà Nội 

Minh Ngọc (Vietnam Business Forum)